Saturday, July 30, 2011

Năm trăm, một nghìn đồng - thưa đi thưa lại

Đọc xong bài này cũng thấy có cái lý, nhưng có vẻ cái lý hơi cùn và hơn thế nữa bộc lộ những cái yếu điểm. Hơn nữa, đọc xong bài này, tui vẫn chưa biết ý đồ của người viết là gì. Thế nên, tui đành phải đoán thôi, thứ nhất phàn nàn vì ai đó nói lạm phát. Thứ hai, nói chuỵên khác biệt giữa người giàu và kẻ nghèo trong xài 1000 đồng hay sự khác biệt ở thành thị và vùng quê hẻo lánh. Thứ ba, chuỵên các vị phớt lờ chuỵên thối tiền vì tiền nhỏ.
 
Thứ nhất, chúng ta phải thừa nhận rằng lạm phát đang ở mức cao, nói đúng hơn là khá cao, đồng tiền đang mất giá thật sự. Đừng nói rằng người ở thành thị hay nông thôn, nhà đại gia hay nhà nghèo không hay vẫn còn xài tiền năm trăm, một ngàn, hãy nói cho đúng tiền đó không còn đáng giá thực sự. Lấy một ví dụ đơn giản, ngồi ngay Sài gòn, một ly cafe tầm chừng 15 ngàn-20 ngàn. Đó là quán bình thường còn quán sang thì hơn nữa. Về Tuy Hòa là miền quê, ly cafe cũng giá đó. (Không nói cafe vỉa hè, vì cafe vỉa hè là chuỵên khác). Nghĩa là ngồi trong quán đàm đạo với vài ba chiến hữu thì bữa cafe sáng đi tong 100 - 200 ngàn là chuỵên bình thường. Một ngàn lúc đó không có giá trị.

Để đáp lại suy đoán thứ hai, phần trên có nói sơ sơ, nhưng người viết bài này mà lập luận kiểu này thấy phi lý quá. Bạn là sinh viên mà là sinh viên nghèo mà xài điện thoại di động. Không lẽ tiết kiệm tiền là để ăn xài hoang phí. Theo lẽ thông thường nhà nghèo phải tiết kiệm từng đồng từng cắc để nhằm đáp ứng nhu cầu tối thiểu: ăn vừa đủ no, mặc vừa đủ ấm và tuyệt đối không xài hoang phí. Thế nên tui nghe đến xài bao nhiêu tin nhắn cho mạng Viettel sinh viên sao thấy chướng. Nhớ lại cái thời sinh viên, tui phải lăn lộn ngoài đời dạy kèm để kiếm tiền và hầu như chẳng biết thế sự nó đang tiến triển thế nào, còn các em sinh viên thời nay nó hiện đại quá mà lại nói chuỵên một ngàn hay năm trăm. Ngay cả thời mới đi dạy, tui vẫn chưa xài điện thoại di động vì không thấy cần thiết cho nhu cầu tối thiểu. Do vậy nếu bạn đã là sành điệu, thì một ngàn hay năm trăm đó cũng chẳng đáng là gì. Không lẽ bạn tiết kiệm 1 ngàn hay năm trăm để mua được cái điện thoại 200 ngàn (tui lấy ví dụ này vì cái điện thoại tui xài không biết bán được 20 ngàn không, nhưng make sure điện thoại các teen thời này chắc không dưới 1 triệu). Nhân tiện cũng đáng ra một tý, chúng ta đừng nhầm rằng ở Sài Gòn mới giàu có, ngay thành phố Vinh, xe hơi cũng có đầy, đại gia không thiếu. Các vị ngoài đó xài tiền còn dữ dằn hơn cả Sài Gòn. Và cũng từ nhầm lẫn đó, các công nhân ở miền quê vào Sài Gòn với mức lương 2 triệu/tháng, họ bĩu môi, tưởng vào Sài Gòn lương 5 hay 10 triệu, chứ bèo thế vào làm gì. Nghe họ nói thế, tui cũng hơi giật mình, một GV ThS mà chừng 5 triệu, bỏ bao năm ăn học, đánh đổi nhiều thứ (ở đây không nói những kẻ cơ hội, mà là người ăn học thực sự và làm thực sự). Còn người công nhân làm công ăn lương ít học, thế mà họ lại ... 

Về ý thứ ba, Việt nam là lai căng. Nghĩa là sao? Có khá nhiều lần tui đi taxi từ sân bay Tân Sơn Nhất về nhà, tiền dư 20 ngàn hay 25 ngàn. Nhiều lúc bác tài không thối, tôi cũng hay phớt lờ vì không đáng. Vì hỏi ra thì họ lại nói không tiền lẻ rồi họ đẩy về phía mình, bác có tiền lẻ thì đưa. Đi xa về mệt, phải làm ba chuyện tiêu tốn nơron, thà dành nhiêu nơron đó kiếm nhiều tiền hơn. Chuỵên thứ hai, đi uống cafe ở Sài Gòn, mỗi lần lấy xe, mặc dù quán không quy định trả tiền xe, nhưng vài quán, mình phải chuẩn bị tiền lẻ để tip (bo) cho các người giữ xe, 5000 hay 10000. Kể ra để làm gì? Ngày tui sống đất Hàn, mỗi lần ăn uống, mua đồ, tiền lẻ dư rất ít 100-200 Won gì đó, cứ nghĩ giống Việt Nam, tui không lấy. Mấy lần đó suýt bị đấm cho vỡ mặt (thậm xưng chút). Vì văn hóa Hàn, bạn làm thế là sỉ nhục người khác đấy. Mà cho kiểu tiền lẻ thế thì cái giá của họ thấp quá, họ càng đánh. Thế còn Canada thì sao, vào quán ngồi, ăn uống gì không biết, bạn phải tip. Tùy hỷ thôi, nhưng mỗi người là 1C$ là giá chót. Thậm chí bạn uống ly cafe chừng 1.5 C$, tip 1C$, còn không thì food-to-go, mua xong, xách đít chạy chỗ khác ăn. Và tip cũng là văn hóa Canada, bạn đừng làm điều gì trái với nếp sống của họ. Quầy bán thức ăn, uống đều có hộp dành cho tip. Cho nên, cũng có nhiều trường hợp họ phớt lờ chuỵên thối là bình thường bởi vì quan niệm của họ tiền nhỏ. Cuối cùng, Việt Nam thì sao. Tui không biết sao cả? Ha ha. Tự hiểu!!!

Không biết tự đoán và tự diễn thế có đúng ý không nhỉ?


 
Hồi âm bài “1.000đ thì mua được cái gì”
(Dân trí) - 1.000đ đối với người khác có thể không mua được gì, nhưng đối với sinh viên là cả 1 ngày gửi xe, một bát canh dưa, 10 cuộc tin nhắn nội mạng và v..v…
 >>  "Một nghìn đồng thì mua được cái gì?"
Đối với cư dân ở thành thị, các thủ đô thì 1.000đ có thể không mua được gì cả. Nhưng đối với những sinh viên khu vực miền Trung chúng tôi, 1.000đ là cả một vấn đề đáng để "kỳ kèo" và mua được nhiều thứ, dùng được nhiều việc.

Những dẫn chứng sau đây sẽ trả lời cho bài viết “ 1.000đ thì mua được cái gì?” đăng trên dantri.com.vn hôm 28/7.
 

1.000 đồng với sinh viên nông thôn vẫn còn khá nhiều ý nghĩa

1.000đ - 1 ngày gửi xe

Trong bài viết “1.000 đ thì mua được cái gì”  tác giả viết; “tiền 500 đồng thậm chí 1.000 đồng cũng đang bị đào thải bởi đơn giản là không mua được cái gì với chừng đó tiền”. Đó có thể là thực trạng ở các thành phố lớn, ở các giới, tầng lớp khác. Nhưng đối với tầng lớp sinh viên, đặc biệt là sinh viên miền Trung thì tiền mệnh giá 500đ và 1.000đ lúc nào cũng có trong túi áo, thậm chí được tích trữ thành từng xấp to.
 
“Đại gia đô 500” là biệt danh mà các bác các cô trông xe ở nhiều trường cao đẳng, đại học đóng trên địa bàn tỉnh Nghệ An phong cho sinh viên theo học tại đây. 1.000đ đối với người khác có thể không mua được gì, nhưng đối với sinh viên là cả 1 ngày gửi xe.
 
Nhưng có một thực trạng tại các điểm gửi xe ở những trường đại học, cao đẳng tại Nghệ An là: dù nhà trường niêm yết giá gửi xe đạp là 500đ/lần, xe máy là 1.000đ, nhưng cứ hễ sinh viên đi xe đạp đưa 1.000đ là luôn không được thối lại (mặc dù họ có rất nhiều tờ 500đ).  Nhiều sinh viên ngại không dám đòi đi luôn, một số sinh viên con nhà giàu thì “bo” lại để tỏ ra ga lăng. Còn đối với sinh viên nghèo như tụi tui thì đứng kèo nèo cãi vã với cô chú gửi xe, quyết đòi lại cho được 500đ tiền dư mới chịu đi vì 500 đó là phần gửi xe buổi chiều tới lớp.

Cứ nhiều lần gửi xe mà không lấy lại được tiền dư, giới sinh viên chúng tôi rút ra 1 kinh nghiệm: chuẩn bị sẵn tờ 500đ đỏ chót. Nhờ nó chúng tôi đỡ tốn thời gian, đỡ mất công kỳ kèo "xin lại" tiền dư dù đó là tiền của mình. Biệt danh “Đại gia đô 500” xuất hiện từ đó.

1.000đ - 10 cuộc tin nhắn, 1 ôm lá cải...

Đến với chợ Quyết thuộc phường Bến Thuỷ, TP Vinh, với 1.000đ sinh viên có thể mua được 1 vộc ớt hoặc một bó hành lá hay một bịch mắm tôm… Vào mùa cải, các nhà buôn thường lấy lá bắp cải già trữ lại thành đống bán cho những người chuyên muối dưa. Nhưng đối với sinh viên khi đến hỏi mua, các chủ buôn thường nói: Sinh viên cứ bốc đầy túi, đưa chú 1.000đ.

Thêm nữa, đối với sinh viên 1.000đ có thể mua 1 lọn dưa chua về nấu 1 nồi canh... cực hấp dẫn.

Cũng với 1.000đ, sinh viên có thể nhắn được 10 tin nhắn nội mạng Viettel đối với sim sinh viên…
 
Và còn ngàn lẻ một cách tiêu 1.000đ trong giới sinh viên, mà trên đây chỉ xin đưa một vài ví dụ dẫn thực cho bài viết.
                                                           
Nguyễn Thị Hằng Nga
Ngách 1, ngõ 5, khối Tân Yên, phường Hưng Bình, Vinh, Nghệ An

Friday, July 29, 2011

Declan Galbraith - Tell me why - An amazing song

 Một bài hát hay, thông điệp đầy đủ, thú vị hơn, ca sĩ nhí thể hiện hoàn hảo, tràn đầy cảm xúc.

Thursday, July 28, 2011

Toán học của ta sau kỳ thi Olympic toán quốc tế 2011

Chỉ có cái đính chính là trường THPT Lê Hồng Phong ở Phú Yên không phải là trường chuyên, mà là trường làng, hẻo lánh. Thế nên, đôi lúc con người giỏi thật sự thì cũng chẳng cần sự trợ giúp không cần thiết bên ngoài, đại loại, phải dùi, phải luỵên với thầy giỏi. Tự thân vận động, mày mò và tìm tòi là kim chỉ nam của thành công. 
Còn chuyện nhiều người khuyên phải thực dụng trong việc dạy và học. Nói cách khác, họ không thích người Việt chú trọng đến toán mà phải học cái gì đó để tạo ra sản phẩm công nghệ. Nói theo nghĩa đen là học xong điện tử, tự động chẳng hạn, người đó phải chế ra con robot điều khiển tự động chạy vòng vòng múa may tý đỉnh. Hehe. Tuy nhiên, cốt lõi của cái làm nó chạy nó múa như lên đồng đó chính là toán. Mà người biết làm toán, thì cái giải thuật nó chính xác, muốn nó múa điệu nào cũng được thậm chí có thể strip dance (múa cột) ở quán bar cũng được. Hì hì.


Olympic Toán VN thấp nhất trong lịch sử 35 năm
- Với sáu huy chương đồng, xếp thứ 31 trong số 90 quốc gia và vùng lãnh thổ tại kỳ thi Olympic Toán học quốc tế lần thứ 52, đoàn Việt Nam năm nay có kết quả thấp nhất trong lịch sử 35 năm dự kỳ thi này.
Đội tuyển Olympic Toán Việt Nam tại IMO 2011

"Cú ngã đáng lo ngại" hay tin vui?

Ông Hồ Sĩ Đàm (Trường ĐH Công nghệ, ĐHQG Hà Nội) bình luận trên Tiền Phong: "6 huy chương đồng cho Toán và không có huy chương vàng nào cho môn học vua này là một cú ngã ghê gớm của Việt Nam".

Lần đầu tham dự IMO vào năm 1974 và thường đứng trong tốp 10 đoàn có thành tích cao nhất, đội tuyển Toán học Việt Nam từng đoạt thành tích cao nhất của đội là vị trí thứ 3. Năm nay, hai nước ASEAN có thành tích tiến bộ vượt bậc Singapore (đứng thứ 3 trong khi trước đây ít khi lọt vào top 10) và Thái Lan (đứng thứ 5).

Bên lề cuộc làm việc với UBND tỉnh Khánh Hòa, GS Ngô Bảo Châu cho hay ông không quá bất ngờ với kết quả này.

"Cách đây 4-5 năm, Hội Toán học Việt Nam đã trình Nhà nước chương trình quốc gia về toán học, như là một cái phao để toán học Việt Nam không bị chìm. Vào thời điểm đó, những người làm toán chúng tôi đã không nhìn thấy lực lượng kế cận của toán học Việt Nam. Còn bây giờ nhiều người đã nhìn thấy rõ điều này" - ông nói với Tuổi Trẻ.

5-6 năm nay,  rất ít em thi toán quốc tế đeo đuổi theo ngành toán. Điểm thi ĐH vào khoa toán ở các trường tốt nhất cũng rất thấp, chứng tỏ rất ít học sinh theo ngành toán nói riêng và khoa học cơ bản nói chung. Với GS Châu, đó là điều rất đáng lo ngại.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến của người ngoài cuộc cho rằng "đây là tin vui mới đúng".

Phân tích về yếu tố "vui", bạn đọc Thanh Hoa trên Tuổi Trẻ Online viết:

"Chúng ta đã dành bao nhiêu thế hệ học sinh ưu tú nhất để lao vào môn toán. Nhưng rốt cuộc, bao nhiêu người trong số họ có khả năng phát triển, nghiên cứu hay lại rẽ ngang sang con đường khác?"

Trong đội tuyển năm nay, có một học sinh trường huyện là Võ Văn Huy (Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong - Phú Yên) - hiện tượng hiếm hoi ở các đoàn Olympic Toán học. Dù kết quả không chói lọi, nhưng câu chuyện "vượt khó vươn lên" của Huy khiến nhiều người ấn tượng hơn so với tấm huy chương Đồng của Huy.

Nhiều người cho rằng, "không phải các em học kém mà đã thực dụng hơn". Còn kết quả IMO không thể là tiêu chí đánh giá toán học Việt Nam tụt hạng hay lên hạng... và nên coi kết quả này là bình thường.

Nguyên nhân?

Năm nay, điểm số cao nhất của đoàn là 21 còn thấp nhất là 17 điểm. Chỉ có một thí sinh đạt được 1 điểm ở câu 6 (câu mặc định là khó nhất của đề thi). Không nói chi tiết, trên VnMedia, một giáo viên lâu năm kinh nghiệm am hiểu về thi IMO cho biết, cách thức và mục tiêu chọn đội tuyển hiện tại "có nhiều điều tế nhị".

Trên Tiền Phong, ông Đặng Đình Tới, Chủ nhiệm bộ môn Vật lý, Trường THPT Chuyên ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐHQG Hà Nội) nhìn nhận, phụ huynh và học sinh ở các thành phố không còn mặn mà với việc học hành để vào lớp chuyên, đội tuyển để đi thi quốc tế.

Ngoài Võ Văn Huy, đội tuyển có 5 thành viên đến từ các trường:  THPT Chuyên Hà Nội - Amsterdam, THPT Chuyên Lê Quý Đôn (Đà Nẵng), THPT Chuyên Bắc Ninh, THPT Chuyên Hùng Vương (Phú Thọ) và  THPT chuyên Lê Hồng Phong (Nam Định).

Theo quan sát của báo VnMedia, khác với nhiều năm trước, thành phần đội tuyển hoàn toàn vắng bóng học sinh của các trường THPT chuyên ĐH Khoa học Tự nhiên Hà Nội, THPT chuyên ĐH Sư phạm Hà Nội, những đơn vị thường xuyên là chủ lực trong đội tuyển Olympic Toán quốc tế. Những năm trước, có năm, cả 6 thành viên đội tuyển đều là học sinh Trường THPT Chuyên ĐH Khoa học Tự nhiên Hà Nội.

Ở lĩnh vực gần với Toán là Tin học, GS Hồ Sĩ Đàm là người đã nhiều lần dẫn các đoàn Olympic Tin học đi thi quốc tế, và từng có huy chương Vàng. Nhưng nay, ông không tham gia dẫn đoàn với lý do không đồng quan điểm với người tổ chức.

Ông Đàm lý giải nguyên nhân, chính sách không còn tuyển thẳng học sinh giỏi quốc gia vào đại học có tác động đến tâm lý của nhiều học sinh giỏi. Các em không mặn mà để tập trung cho đội tuyển.

Không phải đội tuyển "vua", năm nay các đoàn Olympic Vật lý và Tin học của Việt Nam đều mang về mỗi đoàn 1 huy chương vàng. Tuy nhiên, các đội tuyển khác như Hóa học, Sinh học năm nay cũng khiêm tốn với kết quả là các huy chương Đồng.

Tuy nhiên, với GS Ngô Bảo Châu, nay đang là Giám đốc Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán và đang làm việc ở Việt Nam thời gian này thì nghĩ khác.

Ông cho rằng, "để toán học Việt Nam không tụt hậu thêm, cần thôi nghĩ rằng Việt Nam là một nước nhỏ. Một đất nước có hơn 80 triệu dân, là một trong số các quốc gia đông dân nhất thế giới thì không thể là một nước nhỏ được. Và như vậy, ngoài phát triển kinh tế là điều vô cùng cần thiết, cần phải có tham vọng xây dựng một nền giáo dục từ phổ thông đến đại học và nền khoa học tương xứng với vị thế của đất nước. Cái đó ai cũng đồng ý nhưng ít người đồng ý với những giải pháp cụ thể".


10 đội xếp cao nhất tại IMO 2011:
1. Trung Quốc
2. Mỹ
3. Singapore
4. Nga
5. Thái Lan
6. Thổ Nhĩ Kỳ
7. Triều Tiên
8. Đài Loan
9. Romania
10. Iran
  • Vân Phong (tổng hợp)

Wednesday, July 27, 2011

PHÚ YÊN - Đất và người

atNhững gì dưới đây được cóp nhặt ở đâu đó và gom về một mối, tôi hy vọng sẽ cho một cái nhìn tổng quan về miền đất Phú thân yêu!






Phú Yên cách Nha Trang 120km. Có diện tích 5.278 km2. Dân số khoảng 768.972 người (1/4/1999). Phú Yên có một vị trí rất tốt, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp Khánh Hòa, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Đaklak và Gia Lai. Trong đồng bằng duyên hải miền Trung, Phú Yên được xem là vựa lúa lớn vì có diện tích đất nông nghiệp lớn nhất, 1 năm thu hoạch được rất nhiều. Phú Yên được coi là vựa lúa là vì địa hình bằng phẳng, thứ 2 đặc biệt là khi người Pháp sang chúng ta đô hộ và khai thác lúa, gạo, chính sự kiện này cho nên người Pháp đã thấy là cánh đồng Phú Yên có thể phát triển được và dựa vào con sông Ba người Pháp đã cho xây một cái đập tên là đập Đoáng Đa, chính đập này đã góp phần giữ cho nước ở lại trong đập để điều khuyết lượng nước tạo cho lúa thêm trù phú. Phú Yên có 1 con sông chạy qua đó là sông Ba (còn gọi sông Đà Rằng), cầu Đà Rằng lớn thứ 3 của đất nước sau cầu Thăng Long và Bắc Mỹ Thuận.
Phú Yên trước đây là một phần của tỉnh Phú Khánh (Phú Yên – Khánh Hòa) được tách ra từ năm 1989, nhưng cơ sở hạ tầng thuộc về Khánh Hòa. Vì thế chính phủ đã đầu tư cho Phú Yên 76 triệu USD để phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế. Các công ty nước ngoài đầu tư vào Phú Yên cũng được ưu tiên như: công ty lắp ráp điện tử Hàn Quốc và lắp ráp xe motor Yamaha. Phú Yên có cánh đồng Tuy Hòa với 2000 ha trồng lúa, 5500 ha dừa, 3000 ha điều, 1000 ha cafe, 1000 ha thuốc lá. Phú Yên hiện có những dự án quan trọng như sân bay dã chiến Đông Tác của quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ được nâng cấp thành sân bay dân sự, công trình thủy điện Ong Hinh với công suất 7000 kwh do Nhật Bản viện trợ. Phú Yên đã từng là đất của vương quốc Chămpa, dấu tích còn sót lại là tháp Nhạn. Phú Yên có cầu Đà Rằng dài 1080m – dài nhất miền Trung. Từ trên cầu, bên phải, trên một ngọn đồi cát là tháp Nhạn.
Người Chăm làm thủy lợi giỏi hơn người Việt .
+ Sân bay Tuy Hòa trước đây là sân bay Đông Tác dưới thời Mỹ, là sân bay quân sự. Sau giải phóng những người tham gia đội Sài Gòn cũ đến đây để đi học tập.
+ Tiềm năng và du lịch của Phú Yên không có nhiều. Ở Phú Yên có tháp Nhạn do người Chăm xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9- 11. Tháp Nhạn nằm trên ngọn đồi đang được người ta bảo tồn những loại cây, loại thực vật quí, và đứng trên ngọn đoài này chúng ta có thể nhìn thấy toàn cảnh của thành phố Tuy Hoà. Thành phố Tuy Hoà có chiều dài bờ biển khá dài 20km.
+ Phú Yên có một ghành đá nổi tiếng đó là ghành Đá Dóa vì có nhiều cục đá xếp lên nhau.
+ Núi Chóp Chài là một trong những cứ điểm lớn khi người Mỹ vào Việt Nam, họ đã dùng những cái chài .
+ Trên đầm Ô Loan có nuôi hải sản đặc biệt là loại sò huyết
+ Nhà thờ Mằng Lăng khá lớn và nổi tiếng.

--------------------------------------------------------------------------------

THÁP NHẠN PHÚ YÊN:
Nằm trên đỉnh Bảo Sơn, phía đông thị xã Tuy Hòa, người ta gọi là núi Nhạn. Trong số những di tích Chămpa còn sót lại tỉnh Phú Yên, tháp Nhạn không chỉ là tháp còn nguyên vẹn nhất mà còn có cả về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật. Tuy nhiên tháp Nhạn cũng bị hư hại khá nhiều, đặc biệt là vào thế kỷ thứ XIX, khi Pháp mới chiếm nước ta một tàu chiến Pháp khi đi qua cửa biển Tuy Hòa nhìn thấy thap Nhạn, thủy quân Pháp tưởng là pháo đài của ta nên đã nã pháo vào làm cho đỉnh tháp bị sụp đổ và cổng tháp cũng bị vỡ. Hiện nay cách tháp 30m là đỉnh tháp bằng đá cao 1,6m, mỗi cạnh rộng 0,9m đó là một chỏm đá có chân hình vuông được chạm hình cánh sen phía dưới, đỉnh có bầu nhọn. Tháp Nhạn là một trong những tháp lớn của Chămpa, mỗi cạnh dài 11m, cao gần 20m thuộc loại tháp tầng hình cuông. Trên các mặt tường của chân tháp được trang trí bằng các cửa giả như mô típ vốn có của tháp … cửa chính ra vào quay vào hướng đông vẫn còn một trám cửa bằng đá thể hiện hình SiVa đang múa điệu múa vũ trụ. Giống các tháp thuộc phong cách chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách của Bình Định, trên mặt tường của Tháp Nhạn không hoa văn trang trí, các cột đứng song song, khoảng tường giữa các cột ốp chỉ là khung chữ nhật trơn. Vòm cửa giả hình cung nhọn có đầu hình quái vật Kala trên đỉnh. Các tầng trên là cấu trúc thu nhỏ dần của phần thân tháp. Do hư hại nhiều nên người ta dùng xi măng che kín cả chân tháp nên ta không thể thấy được hình dáng trang trí ở phần này. Theo các nhà nghiên cứu của tháp Nhạn được xây dựng cuối thế kỉ XI đầu thế kỉ XII. Tháp Nhạn cũng liên quan tới truyền thuyết Pônagar, người ta cho rằng tại đây cũng thờ bà. Vì trong truyền thuyết xứ Tuy Hòa là nơi đầu tiên bà ghé khi xuống trần và tại đây bà đã giết chết quỷ dữ, khai thông cửa sông Đà Rằng để dân chúng ra vào dễ dàng.


--------------------------------------------------------------------------------

NÚI NHẠN - SÔNG ĐÀ PHÚ YÊN:
Là cụm thắng cảnh đã để lại nhiều ấn tượng với du khách khi đặt chân đến Phú Yên. Núi Nhạn nằm bên bờ Bắc sông Đà Rằng, thuộc địa phận phường I, thành phố Tuy Hòa. Núi Nhạn còn có tên gọi khác là “Núi Bảo Tháp” hoặc “Tháp Dinh”. Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh Núi Nhạn, ta có thể bao quát một vùng non nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình Ngọc, núi Đá Bia, Biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m bắt song song qua sông Đà Rằng. Trên đỉnh Núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có tên gọi là Tháp Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng vào khoảng thế kỷ 11. Tháp có cấu trúc khối hình chóp vuông vững chắc cao 25m, gồm tất cả 4 tầng thu nhỏ dần khi lên cao.
Núi Nhạn nằm một góc giữa chỏm cắt của QL1A và nhánh sông Chùa thuộc phường Bình Nhạn nay gọi là phường I thành phố Tuy Hoà. Núi cao 60 mét so với mặt nước biển, có đường chu vi quanh núi khoảng trên 1 km. Núi Nhạn có hình thế xoè ra như hình con chim nhạn xoè đôi cánh, với phần đầu là chỗ giao nhau giữa QL1A và sông Chùa, cổ thon nhỏ lại rồi phình to ra như đôi cánh chim ở phần đường Tản Đà, vì vậy nên mới có tên gọi này. Cũng có người cho rằng, ngày xưa núi này như một cù lao nhỏ nằm trong vịnh Tuy Hoà (biển ăn sát đến tận chân dãy Trường Sơn), là nơi để loài chim nhạn làm tổ, trú ẩn. Sau này, vịnh dần dần được bồi lấp tạo nên đồng bằng rộng lớn nối liền cù lao Nhạn với đất liền. Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng nở vàng vào mùa xuân và mùa hạ, ở phía đông-nam gần sông Chùa có một trảng sim nhỏ, đến mùa hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn, cò và đặc biệt là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên núi này cho đến khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và đặt súng đại bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc hành quân nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác, cây cối bị đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.
Trên núi Nhạn có một ngôi tháp do người Chăm xây dựng vào thế kỷ thứ XII (cũng có tài liệu nói là xây vào thế kỷ XIV). Tháp có bình đồ hình vuông, mỗi cạnh 10 mét, cao trên 20 mét có đế móng, thân và mái là những gờ gạch xây nhô ra bên ngoài. Trong tập “Gìn giữ những kiến trúc kiệt tác trong nền văn hóa Chăm” của nhóm tác giả Lưu Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Quốc Hùng do nhà xuất bản Văn hoá dân tộc ấn hành năm 2002 thì tháp có 4 tầng, càng lên cao càng thu nhỏ lại, nhưng mô hình và cách thức trang trí từ dưới lên đều giống nhau. Nóc của tháp gồm nhiều lớp xếp, phần chóp được cấu tạo bằng phiến đá nguyên tảng (đã qua đẽo gọt) có hình búp sen cân đều. Đó là biểu tượng Linga của người Chăm. Trên đỉnh tháp, bốn mặt đều có bốn cửa sổ giả, tách biệt giữa phần trên và tầng dưới. Cửa chính ở hướng Đông, phần trên cửa hình vòm, xây cuốn theo kiểu giật cấp. Những hàng gạch bên trên hơi chồm ra so với hàng gạch dưới. Càng lên cao thì chồm ra ít hơn cho đến khi khép kín vòm.
So với nhiều tháp khác của người Chăm ở Bình Định, Khánh Hoà, Phan Rang hay Mỹ Sơn thì ngọn tháp trên núi Nhạn, bên trong không có tượng thờ cũng như những hoa văn, họa tiết trang trí; duy nhất chỉ thấy những họa tiết hoa văn hình rồng được chạm khắc biến dạng đi hay cách điệu bằng đá hoa cương đặt bên ngoài góc tháp.
Bên trong tháp, tường xây thẳng đứng cao vút từ phần đế tháp cho đến hết phần thân. Phần mái, tường được thu nhỏ dần cho đến đỉnh, tạo thành hình chóp nón. Trong lòng tháp không có bệ thờ, không có tượng. Từ lâu đời, khoảng thời Hậu Lê, nhân dân xây một cái am nhỏ phía trước để thờ bà Thượng Đỉnh Chúa Thiết A Na Diễn Ngọc Phi. Thời chống Pháp am thờ này bị đập phá. Sau này miếu được xây dựng lại trên nền cũ có đề bốn chữ “Thượng Đỉnh Linh Miếu”.
Về nghệ thuật tạo hình, thân tháp có tạc tượng thần và những chiếc cột bằng gạch xếp chồng đều nhau thẳng như kẽ chỉ, tạo thành những đường gờ nhô ra để khi trông vào không có cảm giác nặng nề và đơn điệu của một hình khối đồ sộ.
Vật liệu xây dựng tháp đều bằng gạch nung với nhiều kích cỡ khác nhau tuỳ theo vị trí của từng mảng tường, từng tầng tháp và được xếp liền khít, không thấy mạch hồ song kết dính rất vững chắc. Người ta khó mà biết được kích cỡ của từng viên gạch, nếu không nhờ vào những nơi bị sứt mẻ, bị ngã đổ. Có nhiều viên hình chữ nhật kích thước 40 x 20 x 7 cm. Trụ và xà ngang của cửa chính là khối đá vôi mềm dễ đẽo gọt, đục chạm. Bốn bên mặt ngoài thân tháp có những cột xây áp vào thân tháp mà mục đích có thể là để gia cố cho tháp được vững chắc. Bắt đầu cuốn lên mái, ở bốn góc bên ngoài thân tháp (đoạn tiếp giữa thân tháp và mái) đều được xây nhô ra những trụ hình chóp có kích cỡ rất nhỏ.
Người Pháp gọi núi Nhạn là núi Khỉ (Montagne des Singes) vì không chỉ trên núi có nhiều khỉ mà chúng còn rất khôn, sống thành bầy đoàn, sẵn sàng hợp quần chống đỡ lại sự đe doạ từ nhiều phía tới, cũng biết trả thù nếu có ai đó làm cho một con trong đàn bị thương hay bị bắt. Xưa, phía bên soi Ngọc Lãng thường trồng bắp, con đầu đàn cho một toán nhỏ canh giữ hai phía đầu cầu sông Chùa rồi chính nó đích thân đưa cả bầy luồn vào đám bắp bẻ và mang lên núi. Những khu dân cư sống quanh chân núi Nhạn đều phải cất giữ rất cẩn thận mọi thức ăn đồ uống, hễ sơ hở là chúng lần vào mang đi mất, chúng hè nhau khiêng cả nồi hai cơm trèo lên vách núi, lấy cắp hoa quả cúng trên trang thờ…
Mạn đông-nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ.
Dưới chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng 3 mét xuyên vào lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm của con rồng nên mới đặt tên chùa là Hàm Long. Theo truyền thuyết, hơn trăm năm về trước, cái hang này ăn thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi từ miệng hang, trái bưởi theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Qua thời gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa hang. (Năm 1994, Cty Du Lịch Phú Yên cho mở lại cửa hang để phục vụ khách du lịch, nhưng công việc bị ngăn lại vì sợ ảnh hưởng đến nền móng của tháp Nhạn đứng bên trên).
Tháp được chạm khắc khá hài hoà, đường nét tinh xảo, mềm mại là bậc thầy của nghệ thuật kiến trúc thời bấy giờ và mãi mãi sau này. Ngọn tháp này tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc độc đáo của người Chăm, vừa mang vẻ đẹp hoành tráng vừa toát lên vẻ thanh thoát nhẹ nhàng tô điểm cho thành phố Tuy Hoà vẻ nên thơ.
Chung quanh việc xây dựng ngọn tháp trên núi Nhạn, có nhiều truyền thuyết khá thú vị: thuở ấy có ông Lương Phù Già (tức Lương Văn Chánh) giao tranh với quân Chiêm Thành. Chiến trường diễn ra ở phần đất thành phố Tuy Hoà ngày nay. Quân của ông Phù Già đóng ở núi Nựu (Nựu Sơn), quân Chiêm đóng ở núi Nhạn để cố thủ. Giao tranh lâu ngày nhưng không phân thắng bại. Để tránh đổ máu gây tang tóc cho lương dân, hai bên giao ước với nhau sẽ cùng xây tháp, tháp của bên nào xây to hơn, nhanh hơn là bên đó thắng, bên kia phải rút quân khỏi phần đất Phú Yên. Địa điểm được hai bên lựa chọn là quân Chăm trên núi Nhạn, quân ông Phù Già trên núi Cổ Rùa, một phần nhô ra của núi Nựu.
Quân ông Phù Già cho quân lính chặt tre, chẻ thành sợi mỏng và đan thành những tấm như tấm phên, phất giấy, bôi sơn rồi ghép lại vào các rường cây thành ngôi tháp cao to đến trăm trượng, phải ngửa mặt mới trông thấy đỉnh, từ đầu chân tháp bên này ngó qua bên kia con người chỉ bằng hột bắp (!?). Quân Chăm dốc toàn sức lực ngày đêm xây đắp cho đến khi sắp hoàn thành thì ngọn tháp của ông Phù Gìa đã hoàn thành, sừng sững một góc trời rất hoành tráng. Quân Chăm đành phải chấp nhận thua cuộc. Để tránh những hậu hoạ có thể xảy ra (như dùng ngôi tháp làm nơi cố thủ), ông Phù Già thách thức Chiêm Thành đốt tháp. Tháp bên nào cháy trước thì bên đó thắng cuộc và bên kia phải rút binh ra cách xa phần đất ước hẹn trước đây 300 dặm (!?). Quân Chăm y hẹn, cho quân sĩ mang cây khô, bổi chà chất quanh tháp tầng tầng lớp lớp rồi nổi lửa đốt. Cột lửa bên núi Nhạn cao ngất trời, cháy từ ngày này qua tháng khác nhưng tháp vẫn cứ đứng vững như trụ đồng, trong khi đó tháp của ông Phù Già chỉ cháy một đêm, sáng ra tháp biến mất. Lương Văn Chánh mang đại quân đến chân núi Nhạn buộc quân Chăm phải thực hiện điều đã ấn định, quân Chăm đành phải rút quân qua khỏi bên kia đèo Cả.
Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp Quốc gia.
Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và du khách gần xa.

TRUYỀN THUYẾT:

Về quá trình hình thành núi, truyền thuyết kể rằng, thuở xa xưa đất Tuy Hoà là một vùng đầm lầy trũng thấp, là nơi cư trú của nhiều loài thuỷ sinh và mãnh thú hung dữ. Đời sống của người dân luôn bị đe doạ. Và để tạo nên một cảnh sống mới, an toàn hơn về mọi mặt, một ngày kia người khổng lồ do Trời sai xuống gánh núi lấp đầy vùng trũng và lấn ra phía biển Đông. Thiên sứ khổng lồ kia miệt mài gánh đất và núi, làm rơi vãi từng cụm nhỏ ở núi Miếu (Hoà Quang) và gành Đá (Hoà Thắng)… và chẳng bao lâu thì lấp đầy cả cánh đồng Tuy Hoà bây giờ. Đến lượt bắt đầu lấn biển, vị thiên sứ kia gắng làm cho xong để sớm trở về trời nên đã gánh núi nặng gấp hai ba lần, đến nỗi khi gần tới biển, chiếc đòn gánh gãy đôi làm rơi xuống hai cụm núi là núi Nhạn và Chóp Chài. Đòn gánh gãy đồng nghĩa với công việc “xẻ núi lấp sông” không thể tiếp tục được nữa và thiên sứ khổng lồ nọ đành ngậm ngùi quay về Trời, chưa tạo được những cụm núi chắn sóng ngoài mạn biển xa. Câu chuyện huyền thoại này được truyền tụng từ khá lâu và có nhiều chi tiết khác nhau, nhưng nội dung chính là hai hòn núi Chóp Chài và núi Nhạn là do người khổng lồ làm gãy đòn gánh mà rơi xuống.
Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng nở vàng vào mùa xuân và mùa hạ, ở phía Đông-Nam gần sông Chùa có một trảng sim nhỏ, đến mùa hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn, cò và đặc biệt là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên núi này cho đến khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và đặt súng đại bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc hành quân nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác, cây cối bị đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.
Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh núi Nhạn, du khách có thể bao quát một vùng non nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình Ngọc, núi Đá Bia, biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m bắt song song qua sông Đà Rằng. Trên đỉnh núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có tên gọi là Tháp Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng.
Mạn Đông-Nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ. Dưới chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng 3 mét xuyên vào lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm của con rồng nên mới đặt tên chùa là Hàm Long.
Theo truyền thuyết, hơn trăm năm về trước, cái hang này ăn thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi từ miệng hang, trái bưởi theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Qua thời gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa hang.
Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được công nhận là Di tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp Quốc gia. Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và du khách gần xa.
Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội khi dừng chân bên núi Nhạn đã không tiếc lời ca ngợi vẻ đẹp của Tuy Hoà và con người Phú Yên:

Nửa thế kỷ rồi qua Phú Yên
Sông Đà núi Nhạn nước non tiên
Bài thơ tương thức tình tương ngộ
Trọng nghĩa tư giao quý bạn hiền

Còn ông Huỳnh Khinh, thi sĩ của quê hương núi Nhạn sông Đà đã có thơ khi trở lại quê hương sau những ngày khói lửa chiến tranh
Lên chơi núi Nhạn buổi tà dương
Phong cảnh nhìn xem đẹp lạ thường
Trước mặt mây hồng vờn biển bạc
Sau lưng gác tía gợn tia vàng.


--------------------------------------------------------------------------------



SÔNG ĐÀ RẰNG PHÚ YÊN:
Có diện tích lưu vực 13.900km2 và chiều dài dòng chính là 388 km, là một dòng sông chảy hoàn toàn trong lãnh thổ nước ta. Bắt nguồn từ sườn núi Công Ca Kinh (1761) và Kông Plông (1376). Sông Đà Rằng thoạt tiên chảy theo hướng bắc – nam cho đến Cheo Reo là cửa phụ lưu Ay jun, từ đây sông chảy theo hướng tây bắc – đông nam cho đến Củng Sơn thì chảy theo hướng tây đông để đổ ra biển ở cửa Đà Diệt (thị xã Tuy Hòa) một cửa sông rất rộng. Sông Đà Rằng có những sông quan trọng như: Ay jun dài 175km với diện tích lưu vực 2950km2, sông Krông Hơnăng dài 130km với diện tích lưu vực là 1840km2, và sông Hinh dài 88km với diện tích lưu vực 1040km2.
Thủy chế của con sông Đà Rằng mang tính chất của con sông miền Trung Trung Bộ, là có lũ tiểu mãn và mùa lũ ngắn, chậm. Mùa lũ tiểu mãn vào các tháng 6 – 7còn mùa lũ chính vào các tháng 9, 10, 11, 12. Lượng nước mùa lũ chiếm khoảng 70% tổng lượng nước năm và tháng có lưu lượng lớn nhất là tháng 11 thì đã chiếm 28,5% bằng lượng nước 8 tháng mùa khô từ tháng 1 – 8. Tháng kiệt nhất là tháng 4 có lượng nước chỉ bằng 1,4% tổng lượng. Thủy chế sông Đà Rằng rất khắc nghiệt, cho nên ngay từ 1928 đã phải cho xây dựng đập Đồng Cam để lấy nước ngọt tưới cho các cánh đồng ở Phú Yên.

--------------------------------------------------------------------------------

VỰC PHUN PHÚ YÊN:
Từ Phường Phú Lâm, thành phố Tuy Hòa đi về phía Tây theo trục đường ĐT 645, rồi rẽ về phía Nam xã Hoà Mỹ Tây thuộc huyện Tây Hòa, đi thẳng vào vùng núi Đá Đen, rồi ngược lên đầu nguồn sông Bánh Lái sẽ thấy một thác nước của dòng suối Cái cao15 m tuôn xuống giữa hai bên vách núi rất kỳ vĩ. Thác nước tung bọt trắng xoá, reo ì ầm giữa rừng xanh hoang vu. Dưới thác là một vực nước sâu xanh ngắt. Nhìn thác từ xa, ta có cảm giác như cột nước phun lên từ lòng vực, có lẽ vì thế mà người ta gọi là “ Vực Phun”.
Đến với Vực Phun, đến với núi rừng xã Hoà Mỹ Tây, du khách không chỉ thưởng ngoạn cảnh non nước trữ tình, quyến rũ, mà còn có thể kết hợp nghiên cứu những di tích văn hoá như chùa Hương Tích là một trong những ngôi chùa cổ ở Phú yên.


--------------------------------------------------------------------------------

THÀNH PHỐ TUY HÒA PHÚ YÊN:
Đầu năm 2005, Chính phủ đã công nhận Tuy Hòa ( Phú Yên) là thành phố. Nơi đây vốn là một thị xã duyên hải miền Trung thơ mộng và tỉnh cũng đang định hướng cho xây dựng thành một đô thị hòa quyện với hình thế sông núi độc đáo.
Có diện tích là 897km2 với dân số khoảng 259.000 người, thành phố gồm 14 đơn vị hành chính (10 phường và 4 xã). Tuy Hòa giáp với các huyện Tuy An, Phú Hòa và Đông Hòa (lần lượt từ bắc tới nam). Tuy Hòa cách Tp.HCM 560km theo QL1A. sân bay của thành phố là sân bay Đông Tác.
Có lẽ duyên hải Việt Nam, chỉ Tuy Hòa có 2 ngọn núi nằm giữa lòng thành phố, đó là núi Nhạn và Chóp Chài. Hai ngọn núi này đã được xây dựng thành công viên núi, với các vườn thực vật sưu tập phong phú chủng loại hoa, cây trên thế giới. Núi Nhạn là ngọn núi thơ nổi tiếng nhất nước. Còn Chóp Chài thì lừng danh “ Chóp Chài đội mũ/ Mây phủ đá bia …” hiện đặt trung tâm phát sóng truyền hình Việt Nam và phát thanh Phú Yên.
Bãi biển Tuy Hòa không náo nhiệt như nhiều bãi nơi khác, sau khi đắm mình vào dòng nước xanh Long Thủy, du khách có thể ngồi vùi chân xuống cát và “nhâm nhi” một ít rượu gạo Quy Hậu nồng nàn với đặc sản tươi ngon như sò huyết Ô Loan, cua bể Yến, ốc nhảy sông Cầu, tôm bạc Vũng Rô, cháo hàu Tuy An … còn nếu muốn đàm đạo nước mây thì hệ thống quán cafe với những công thức chế biến bí truyền pha nước mắm nhĩ sẽ làm say lòng du khách tại các quán Tùng ( Tản Đà), Cổ Gia Trà ( Hùng Vương), Thạch Lâm ( Nguyễn Huệ)… để làm quà sau chuyến phiêu du, khách có thể mua bánh tráng Hòa Đa, nước mắm Gành Đỏ – An Hòa, cá ngựa Vũng Lắm, mực khô Phú Câu, “Quy Hậu Tửu” – hàng gia dụng mỹ nghệ dừa độc đáo tại doanh nghiệp Bình SVC (nơi chế tác chiếc bình gáo dừa kỷ lục Việt Nam) ...
Tp.Tuy Hòa cách thủ đô Hà Nội 1177 km, du khách có thể dễ dàng đi bằng tàu hỏa, ô tô hoặc máy bay. Du khách có thể liên hệ trung tâm điều hành du lịch Phú Yên, ĐT : (057) 823697 – 825310 để biết thêm chi tiết.

--------------------------------------------------------------------------------

ĐẦM Ô LOAN PHÚ YÊN:
Đầm Ô Loan thuộc địa phận huyện Tuy An, có diện tích toàn mặt nước là 1.570ha, cách thành phố Tuy Hoà về phía bắc 20 km. Nước trong đầm thuộc loại nước lợ (nước xà hai) do đầm ăn thông ra biển bằng cửa Lễ Thịnh, đưa nước mặn vào đầm mỗi khi thuỷ triều lên; đầm cũng nhận nước ngọt từ sông Cái và các con suối nhỏ chung quanh đổ vào. Do thế đất đồi là đất sỏi nhớt nên mùa mưa làm xói lở, kéo theo lượng phù sa khá lớn bồi lắng lòng đầm. Do vậy, lòng đầm chỗ sâu nhất khoảng 6 mét, chỗ cạn, thường là ven bờ, khoảng trên 1 mét. Riêng phía trên cửa Lễ Thịnh thuộc địa phận An Hải mực nước sâu tới 10 mét.
Tuy vậy, khi đứng trên đỉnh đèo Quán Cau, du khách phóng tầm nhìn bao quát khắp cả vùng thì đầm Ô Loan như một mặt hồ rộng yên ả được bao bọc bởi những dãy đồi thấp thoai thoải với những ruộng mía xanh ngắt…Nhìn từ phía nam, đầm Ô Loan giống như chim phượng hoàng đang xoải cánh, còn trên bản đồ Ô Loan giống con thiên nga đang thong thả bay trên bầu trời cao xanh thăm thẳm.
Cũng từ đỉnh đèo Quán Cau nhìn xuống, khi tầm mắt chạm vào núi Từ Bi có một doi đất chảy ra đầm Ô Loan, thì lại thấy đầm trông giống như con chim hạc vừa giang đôi cánh rộng vừa vục đầu xuống đầm uống nước. Núi Từ Bi là một nhánh nhỏ của đèo Quán Cau, có con suối cùng tên Từ Bi, bắt nguồn từ hòn Chồng. Suối chảy ngoằn ngoèo qua các khe núi rồi đổ ra đầm, tạo nên cảnh quan thơ mộng.
Từ mạn Tây Bắc chạy ra tới An Ninh Đông là bãi cát vàng óng, có rừng phi lao chạy dài theo men bờ nước, xưa kia là nơi trú ẩn của các loài chim thú như le le, chàng bè, bồ nông, cò, diệc và nhiều nhất là vịt nước. Chúng sinh sống thành từng đàn, bắt cá dưới lòng đầm.
Khi đứng ngắm mặt đầm buổi bình minh, du khách dễ có những tưởng tượng, rằng các dãy đồi phía Đông-Nam như hình dáng con chim khổng lồ đang chuẩn bị cất cánh bay lên trời cao lộng gió và nắng. Nhưng khi hoàng hôn buông xuống, lại thấy cánh chim xoải rộng như đang xoè đậu bên cạnh mặt hồ lăn tăn gợn sóng… Đây không phải là ảo giác mà chỉ vì quanh đầm có những ghềnh đá nhô xa ra ngoài đầm tạo thành những mỏm mới thoạt nhìn có nhiều hình dạng khác nhau tuỳ theo nhãn quan và tâm trạng mỗi người trong từng thời điểm khác nhau: như mỏm Cây Sanh có lúc như cánh chim vươn cao, lúc nhìn như tà áo lụa xanh bay lất phất trong nắng sớm. Có lẽ chính bởi thế núi đồi, vị trí của đầm nên nhiều tao nhân mặc khách đã không tiếc lời ngợi ca qua nhạc họa thơ văn, mà tiêu biểu là nhà thơ Xuân Diệu khi đứng nhìn mặt đầm đã thốt lên: “Mặt đầm, đôi cánh chim Loan mở”. Còn trước đó khá lâu, thi sĩ Tản Đà đã ghé ngang qua đây và thốt lên rằng: “Lấy chi vui với thu tàn; Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu”. Dung dị và mộc mạc hơn, trong dân gian còn lưu truyền câu ca dao đánh dấu một giai đoạn lịch sử hào hùng của nhân dân Phú Yên và riêng của Lê Thành Phương, người anh hùng của quê hương đã ngẩng cao đầu trước lưỡi gươm kẻ thù:

“Ô Loan nước lặng như tờ
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần Vương
Trải bao gối đất nằm sương
Một lòng vì nước nêu gương anh hùng.”

Trong đầm còn có những rạng ngầm dưới mặt nước, là nơi để những con hàu bám vào sinh sống, một loại hải sản ngon, mát bổ. Đầm Ô Loan có nhiều hải sản sinh sống như tôm, cá, ghẹ, cua huỳnh đế, điệp, cá mú… nhưng ngon và nổi tiếng nhất vẫn là con sò huyết Ô Loan cơm dày, thịt ngọt và rất thơm, thơm hơn sò huyết các nơi khác, được du khách trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Trước đây, sò huyết Ô Loan không chỉ có mặt khắp nơi trong nước mà còn xuất khẩu sang Singapore, Thái Lan…
Hiện nay, đầm Ô Loan được Bộ VHTT xếp vào di tích danh thắng cấp quốc gia. Hàng năm, vào ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch, nhân dân sống quanh đầm tổ chức lễ hội đua ghe truyền thống, thu hút nhiều đội ghe đua ở các địa phương khác đến tham gia. Trước đó, ngư dân cũng tổ chức cúng thần, cầu ngư, hò bá trạo…Trong dân gian có nhiều huyền thoại về tên gọi đầm Ô Loan, nhưng gần gũi nhất là câu chuyện về nàng Loan và chim Ô thước đã được truyền tụng từ đời này sang đời khác. Theo lời kể của ông Cao Phi Yến một nhân sĩ và là nhà nghiên cứu văn hoá dân gian kể lại rằng: Ngày xưa, có nàng tiên trên trời rất xinh đẹp tên nàng Loan, nhưng tính tình hay tinh nghịch. Một ngày nọ nàng Loan mượn con chim Ô thước bay xuống trần gian dạo chơi khắp nơi mà không hề để ý chim đã mỏi cánh, đói và khát, nên khi ngang qua Tuy An, chim không còn đủ sức để bay, nên hạ cánh xuống dãy núi Từ Bi, sau này mượn tên chim Ô thước của nàng Loan ghép chung với tên nàng, gọi tắt là Ô Loan để đặt tên cho đầm.
Dị bản: Cũng y với câu chuyện này, nhưng chi tiết được thêm thắt nên câu chuyện có một vài thay đổi: Nàng Loan vốn là tiên nữ trên trời, nàng thích ngao du sơn thuỷ để nhìn ngắm cảnh đẹp sông nước, núi non. Một ngày kia, nàng Loan cỡi con chim quạ bay ngang qua đất Phú Yên, thấy trên mỏm Cây Sanh có một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú đang cuốc đất khẩn hoang trồng cây lương thực. Nàng cho quạ hạ cánh xuống gần đó và núp trong bụi cây quan sát. Càng nhìn, lòng nàng càng vương vấn; càng ngắm nàng càng thấy mình không thể rời xa chàng được nữa. Thế là nàng Loan quyết định ở lại cõi hồng trần, xe duyên kết tóc với chàng thanh niên nọ, ra sức khai phá đất đai, lập nên đất Tuy An và sanh con đẻ cái lập thành làng mạc trù phú.
Những truyền thuyết, huyền thoại về một vùng đất sẽ làm tăng thêm sức hấp dẫn và vẻ đẹp của vùng đất ấy, cho nên quanh đầm Ô Loan, những truyền thuyết không chỉ dừng lại ở đây, mà con đem cả sự tích Cao Biền, một sự tích có vẻ hoang đường nhưng được người đân địa phương nhiều thế hệ kế tiếp nhau mượn cớ tô vẽ nhằm góp phần điểm xuyết cho Ô Loan thêm mỹ miều thơ mộng hơn.



--------------------------------------------------------------------------------
NÚI CHÓP CHÀI PHÚ YÊN:
Nằm ở phía tây Quốc lộ 1A, cách trung tâm thị xã Tuy Hoà 4 km về phía Bắc (thuộc xã Bình Kiến), Chóp Chài còn có tên là Nựu Sơn. Chóp Chài cao 391 m, nhưng trông thật đường bệ. Người Tuy Hoà xem núi Chóp Chài cùng với núi Đá Bia là một cặp đài khí tượng báo hiệu nắng mưa:

“Chóp Chài đội mũ
Mây phủ đá Bia
Ếch nhái kêu lia
Trời mưa như đổ”.

Chóp Chài có những dấu tích huyền thoại như Trai Thuỷ tục danh là Hang Dơi, hang này rộng khoảng 5m, chiều sâu hun hút. Trong hang có những tảng đá phẳng lì.
Đông, tây, nam, bắc đều có chùa: Hoà Sơn, Minh Sơn, Khánh Sơn, Bảo Lâm được xây dựng trên lưng sườn núi, nhìn xuống có “Liên trì dục nguyệt” (Trăng tắm ao sen) rộng khoảng 1,2 ha.
Nựu Sơn nằm giữa vùng thiên nhiên tuyệt đẹp, gắn với những giá trị nhân văn, đã đi vào lịch sử ký ức của nhân dân trong vùng, nơi đây sẽ là một điểm du lịch văn hoá, tham quan, ngắm cảnh lý tưởng.


--------------------------------------------------------------------------------

HUYỆN SÔNG CẦU PHÚ YÊN:
Là một trong hai huyện địa đầu phía bắc của tỉnh Phú Yên, phía bắc giáp huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn của tỉnh Bình Định, đông giáp biển đông, tây nam giáp huyện Đồng Xuân, nam giáp huyện Tuy An. Huyện Sông Cầu có diện tích là 187, 3km2 trong đó đa số là đất nông nghiệp và đất hoang.
Địa hình chủ yếu là đồi núi, vài cánh đồng lúa nằm giữa các ngọn núi không cao. Bán đảo Xuân Hải (gồm xã Xuân Hải và Xuân Hòa), đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài. Gồm 1 thị trấn và 9 xã là thị trấn Sông Cầu, xã Xuân Lộc, Xuân Bình, Xuân Hải, Xuân Hòa, Xuân Cảnh, Xuân Phương, Xuân Thịnh, Xuân Thọ 1, Xuân Thọ 2.
Huyện Sông Cầu được tách ra từ huyện Đồng Xuân, ngay khi Phú Yên được tách ra từ Phú Khánh. Các tuyến đường chạy qua huyện Sông Cầu là QL1A nối với huyện Tuy Phước (Bình Định) và huyện Tuy An. QL1D nối với thành phố Quy Nhơn ( Bình Định).


--------------------------------------------------------------------------------

ĐÈO CÙ MÔNG PHÚ YÊN:
Dài 9km là ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Bình Định. Theo truyền thuyết thì “Cù” có nghĩa là quái vật, “Cù Mông” có nghĩa là con rồng nhỏ. Chuyện kể rằng thuở xưa trong khu rừng này có một con rắn sống rất lâu năm, nó có tâm tu luyện để được hóa kiếp mà tu mãi nó cũng chỉ là một con rắn. Thất vọng nó đi tìm Phật để hỏi lí do. Trông thấy nó cũng có tâm hướng thiện Phật bảo nó phải nằm yên một chỗ không được cử động để tịnh tâm. Rắn mừng lắm, nó trở về và quyết tâm làm theo những gì mà phật đã dạy nó. Cứ thế năm tháng trôi qua rắn đã nằm yên như thế đã ngàn năm và chắc đã toại nguyện nếu không có một ngày kia có một tay thợ săn vào rững săn thú đã làm hỏng tâm huyết của con rắn đáng thương nọ. Chàng thợ săn đó vào rừng đã vài hôm và cảm thấy mệt nên quyết định tìm một chỗ nào đó để nghỉ mệt. Thấy có cành cổ thụ nằm bên đống lá rừng chàng bèn ngồi xuống nhóm một đống lửa và định nấu một món gì đó ăn, nhưng chàng có ngờ đâu khúc cây khô chàng ngồi chính là chỗ con rắn đang nằm khổ công tu luyện, đống lửa chàng đốt ngày càng cháy lớn, nó táp vào da, thịt con rắn. Rắn quyết tâm chịu dựng vì không nỡ thấy tâm huyết lâu nay của mình phút chốc bị tiêu hủy, nhưng cuối cùng rắn cũng không chịu nổi nó phóng mình xuống khe núi, cảm động cho hoàn cảnh của con rắn, Phật đã hóa nó thành con rồng nhỏ.
Qua đèo Cù Mông, đến ngã ba, rẽ phải vào thành phố Quy Nhơn.


--------------------------------------------------------------------------------

CHÙA ĐÁTRẮNG PHÚ YÊN:
Chùa sắc tứ Từ Quang được xây dựng từ năm 1797 (năm Đinh Tỵ) nằm trên một triền đồi toàn đá trắng nên còn được gọi là chùa Bạch Thạch (Đá Trắng) thuộc thôn Cần Lương, xã An Dân, huyện Tuy An, cách trung tâm thành phố Tuy Hoà khoảng 35 km về phía Bắc, cách Quốc lộ 1A khoảng 500 m. Chùa ở độ cao gần 100 m so với mặt nước biển. Lưng chùa hướng về phía Bắc dựa vào dãy núi Xuân Đài. Mặt trước chùa hướng về phía Nam, nhìn ra con sông Cái (sông Ngân Sơn) và sông Nhân Mỹ. Đứng ở sân chùa nhìn bao quát một vùng sông, núi xanh biếc thật tuyệt vời.
Tổng diện tích đất chùa khoảng 5.000 m2. Phía Tây là nơi xây dựng tháp thờ các vị hoà thượng khai sáng và trụ trì ở chùa Từ Quang. Khởi thuỷ là Hoà Thượng Pháp Chuyên tự Luật Truyền hiệu Diệu Nghiêm phái Lâm Tế đời thứ 36. Xung quanh chùa là vườn xoài rất nổi tiếng, đã đi vào thơ ca Phú Yên như là một sản phẩm rất đặc biệt “Xoài đá trắng, Sắn phường Lụa”. Dưới triều đình nhà Nguyễn, hàng năm đến vụ xoài người ta thu hoạch chuyển về kinh dâng Vua, nên xoài Đá trắng có tên là “Xoài Ngự” “Xoài Tiến” và được mang hiệu là “Bạch Thạch Yêm Ba”.
Chùa Đá Trắng được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hoá cấp Quốc gia năm 1997.
Về mặt bề thế vào thời kỳ đó, chùa Từ Quang được xếp vào loại lớn nhất trong tỉnh. Và năm Thành Thái được vua ban sắc tứ cho ngôi chùa này. Sau nhiều lần trùng tu, chùa Từ Quang đẹp hơn, uy nghiêm tráng lệ hơn. Chùa Từ Quang, phía bắc tựa vào dãy núi Xuân Đài, những cụm đỏ màu trắng nhấp nhô ẩn hiện trong những chùm cây um tùm càng làm tăng thêm vẻ cổ kính thâm nghiêm.
Ba mặt còn lại là triền núi thoai thoải đổ về hướng đụng với những bụi nhỏ, cỏ xanh tạo cảm giác cho du khách thập phương như đang đứng ngắm một thảo nguyên thu nhỏ trong những bức danh họa cổ điển lúc trời quang mây tạnh nắng hanh nhẹ. Còn phía nam, trước mặt chùa là con sông cái Ngân Sơn – Phú Mỹ bao bọc tựa một dải lụa bạc trong nắng ban mai. Những buổi chiều ánh sáng phản chiếu mặt nước biếc dòng sông và dãy núi đá trắng trong khoảnh khắc trời mây sông núi liền một màu trông rất thơ mộng.
Cách thờ phụng hậu tổ, về hình thức cũng giống như các chùa khác. Nhưng về nét huy hoàng có phần trội hơn với màu sắc hài hoà khiến cho khách cảm thấy như được chìm đắm trong ánh đạo vàng vô biên và mầu nhiệm. Vườn chùa có 8 ngôi tháp xây dựng trên khu đất rộng ở phía tây ngôi chùa. Trong số đó có một ngôi thật đồ sộ, những ngôi khác nhỏ hơn. Duy có điều bia mộ của ngôi tháp bị rêu phong xói mòn không còn được vững chắc.
Riêng ngôi tháp của Đại sư Thiện Tu vừa tịch được xây theo kiểu mẫu những mộ tháp của phái Đại thừa, đặc trưng của Campuchia, TháiLan; dáng tháp có nhiều vòng tròn lớn nhỏ chồng lên nhau trông như những vầng hào quang của phật.
Ngôi chùa từ Quang có Đại hồng chung nặng 330 cân, do hoà thượng Pháp Ngữ ra Huế đúc vào năm Duy Tân thứ chín.


--------------------------------------------------------------------------------

ĐỊA ĐẠO GÒ THÌ THÙNG PHÚ YÊN:
Địa đạo Gò Thì Thùng là một kỳ tích của quân và dân Phú Yên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia
Kỷ niệm 79 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng 3/2, tại di tích lịch sử địa đạo Gò Thì Thùng, xã An Xuân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã diễn ra lễ đón nhận bằng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia địa dạo Gò Thì Thùng và khai mạc Hội thi đua ngựa truyền thống.
Được khởi công xây dựng vào ngày 10/5/1964 và hoàn tất vào tháng 8/1965, địa đạo Gò Thì Thùng có chiều dài gần 2km và 10km giao thông hào, tạo thành một mặt trận kiên cố, là cơ sở vững chắc cho bộ đội ta và dân quân du kích địa phương bố phòng đánh địch, đánh tan nhiều cuộc hành quân của địch trong chiến tranh cục bộ, làm nên những chiến công vang dội vào mùa khô năm 1966.
Tuy nhiên, để phát huy các giá trị lịch sử văn hóa của di tích địa đạo Gò Thì Thùng hiện còn rất nhiều việc phải làm. Hiện tại, giao thông đi lại ở địa đạo còn rất khó khăn, cuộc sống của người dân tuy có được cải thiện nhưng còn ở mức thấp, nguồn kinh phí đầu tư, tôn tạo địa đạo còn hạn chế… đang là những trăn trở của địa phương. Tỉnh Phú Yên đang có kế hoạch xây dựng di tích Gò Thì Thùng trở thành điểm đến trong chương trình hướng tới kỷ niệm 400 năm Phú Yên và Năm du lịch quốc gia 2011, đồng thời nâng cấp lễ hội đua ngựa truyền thống Gò Thì Thùng lên tầm tỉnh và khu vực.
Ông Lê Kim Anh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên cho biết: UBND tỉnh đang tập trung đầu tư để di tích này trở thành di sản của quốc gia và là điểm đến của nhân dân trong và ngoài nước. Hiện nay, tỉnh cũng đã có đầu tư để nâng cấp đàn ngựa và sẽ tập trung để quảng bá hoạt động này đến với cả nước, coi như một điểm đến, một hoạt động trong chương trình kỷ niệm 400 năm Phú Yên và Năm du lịch quốc gia 2011./.


--------------------------------------------------------------------------------

THÁC H'LY PHÚ YÊN:
Thác H’ly, nằm trên thượng nguồn sông Hinh, thuộc buôn Kít, xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, nơi tiếp giáp với tỉnh Đắk Lắk. Khu vực này bao gồm nhiều con suối nhỏ, nằm phía Đông Nam dãy Trường Sơn. Từ thị trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh đến buôn Kít khoảng 15 cây số đường chim bay, du khách sẽ thấy một dòng sông nhỏ nằm vắt ngang qua núi tạo thành một cái thác sâu khoảng 20 mét, gọi là thác H’Ly.
Nước từ trên cao, đổ xuống tung bọt trắng xóa trước khi đổ ra hồ thủy điện Sông Hinh, rồi xuôi dòng nhập vào sông Ba. Chung quanh thác, là những cây rừng già cao vút, với những chùm phong lan tỏa hương thơm dìu dịu. Du khách có thể lần theo những bậc đá đen, xuống lòng thác ngâm mình trong dòng nước mát lạnh và trong vắt vào mùa hè. Thác H’ly, không chỉ có cảnh quan đẹp, nó còn gắn liền với một chuyện tình lãng mạn. Theo các già làng ở Sông Hinh kể lại, thì thác H’Ly là cả một thiên tình sử diễm lệ của đôi trai gái yêu nhau, mà không bao giờ được gần nhau.
Truyền thuyết
Từ thuở xa xưa, trên vùng đất tươi tốt Sông Hinh và Ma Đrắk, có hai bộ tộc thường xảy ra mâu thuẫn. Người dân hai bộ tộc, luôn mơ ước được sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng, cùng nhau hưởng cảnh ấm no hạnh phú. Niềm mơ ước này, tưởng có thể trở thành sự thật, khi chàng trai của vị tù trưởng bộ tộc này, đem lòng yêu thương cô con gái cưng của vị tù trưởng bộ tộc kia. Chàng trai được mô tả, là con người thông minh, tuấn tú và cô gái kia là một thiếu nữ đang tuổi mười tám đôi mươi, cực kỳ xinh đẹp, đến nỗi chim công chim trĩ cũng phải hờn ghen. Nàng đi đến đâu, cũng có hàng đàn bướm sắc màu sặc sỡ bay theo, những bông hoa rừng đẹp nhất, cũng phải nghiêng đài hoa cúi chào, lay động tỏa hương thơm ngào ngạt. Nàng tên H’Ly. Nàng H’Ly còn khéo tay dệt những tấm vải đẹp nhất, nướng những con thú rừng ngon nhất, đức hạnh vẹn toàn…Mối tình của chàng trai, không bao lâu sau đó, được nàng đáp lại khi nghe tiếng đàn réo rắt như mời như gọi, đến da diết trong những đêm trăng sáng và ngay cả khi tối trời. Hai người thường hò hẹn nhau ngay trên bờ sông Hinh, nơi có cánh rừng đại ngàn, có con sông nước trong xanh với làn hương của muôn loài hoa tỏa bay thơm ngát. Họ thề ước cùng nhau sống trọn kiếp người trong hạnh phúc lứa đôi và không quên làm cầu nối, để xóa tan đi những hận thù của hai vị tù trưởng là cha của chàng và nàng, mang lại cuộc sống ấm no cho hai bộ tộc.
Tuy nhiên, những tâm nguyện tốt đẹp của hai người, đã trở thành tro than, khi hai bên, lại sử dụng binh lính để giải quyết những bất hoà. Vị tù trưởng gọi con trai là người yêu của H’Ly đến, phán rằng: “Con hãy đem quân lính tinh nhuệ nhất giữ vững bờ cõi và chớ để họ lấn sang”. Vâng lệnh cha, chàng thanh niên mang quân ra đi, nhưng trong lòng mong sao cho hai bên đừng đánh nhau. Chàng vỗ về và phủ dụ binh lính dưới quyền, rằng ta cứ giữ vững cương vực của mình là hoàn thành nghĩa vụ, chớ có liều lĩnh hoài phí mạng sống các người.
Quân của chàng án ngữ dọc địa giới của hai bộ tộc, canh phòng cẩn mật khiến cho quân của bộ tộc kia không thể tấn công nổi. Tuy nhiên sự canh phòng, án ngữ quá lâu, nên trong lòng binh sĩ bắt đầu lơi lỏng, cẩu thả trong việc canh giữ. Nhiều đêm, họ còn gảy đàn, uống rượu ca hát dưới ánh lửa rập rờn. Đối phương chỉ chờ có vậy và phát lệnh tấn công. Hàng hàng quân lính của đối phương ào lên như bão như thác, khiến quân lính của chàng không kịp trở tay và chàng đã bỏ mạng trong trận giáp chiến đó. Đầu chàng được mang về cho vị tù trưởng xử tội.
Đoàn quân chiến thắng ca khúc khải hoàn. Vị tù rưởng rất hài lòng với chiến công của binh sĩ dưới quyền và mở tiệc khao quân thật lớn, đồng thời, mang thủ cấp của chàng trai là người chỉ huy của đối phương bêu lên ngọn giáo. Vừa mới nhìn thấy đó là đầu của người yêu mình, H’Ly ngã lăn ra bất tỉnh và ngã bệnh. Vị tù trưởng, cho mời các thầy lang giỏi nhất trong lãnh địa của mình đến chữa trị cho con gái yêu, nhưng tất thảy đều vô hiệu. Càng ngày, nàng H’Ly càng vàng võ. Và cho tới một hôm nọ, nàng bỏ nhà ra đi, tới nơi dòng sông ngồi than khóc cho số phận. Nước mắt nàng làm cho cây rừng chung quanh khô lá, những bông hoa thôi nở, chim chóc ngừng hót… Nước mắt nàng biến thành con suối, thành dòng sông và cuộn trào tuôn đi, xói bờ đá cứng thành thác sâu, nước đổ réo rắt như oán như than, sụt sùi tung bọt trắng ngầu cả một quãng sông dài. Nàng than khóc mãi, rồi gục chết bên bờ sông. Sau này, cận thần tìm thấy xác nàng đã hóa thành phiến đá đen, phía trên bậc thác. Các đời sau này, nhớ lại mối tình bi thảm đó, bèn lấy tên nàng đặt tên cho thác là thác H’Ly.
Một số già làng khác thì kể rằng: Chàng trai và cô gái yêu nhau nhưng hai vị tù trưởng ra sức cấm cản. Duyên không thành, chàng trai bỏ lên núi Ngok Linh, còn nàng thì ra bờ suối, nơi hai người đã từng thề ước than khóc. Nước mắt nàng chảy thành suối thành sông, xói mòn cả vỉa đá biến thành vực thành thác rồi gục chết tại chỗ. Thương cảm mối tình chung thủy của nàng với người yêu, dân làng đặt tên thác là thác H’Ly.


--------------------------------------------------------------------------------

BẾN NƯỚC BUÔN CHƠ PHÚ YÊN:
Bến nước Buôn Chơ thuộc xã Krông Pa, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, nằm sát bên bờ sông Cà Lúi, một nhánh nhỏ của thượng nguồn sông Ba. Quanh năm sông Cà Lúi nước trong leo lẻo, đứng trên bờ có thể nhìn thấy rõ ràng khuôn mặt mình dưới làn nước trong vắt. Người dân buôn Chơ đều lấy nước từ con sông này dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Đứng trên cao nhìn xuống, thấp thoáng trong những cánh rừng thưa, mỗi sáng mỗi chiều trai gái trong buôn mang gùi nước ra bến sông, rực rỡ trong những tấm áo màu trong nắng vàng cao nguyên, toả tràn lên những tán lá rừng xanh ngắt…
Bên bến nước Buôn Chơ có đó một tảng đá to, bằng phẳng trên phiến đá ấy có in sâu vết lõm hình bộ xương của con lươn khổng lồ. Bên cạnh đó là tảng đá khác cũng to lớn và phẳng phiu như vậy, in hình một dấu chân người khổng lồ. Theo truyền thuyết, đó là dấu chân Y Rít, người đã tìm ra nguồn nước.
Truyền thuyết về dấu chân Y Rít
Tương truyền, thuở xưa dân làng sống rất khó khăn vì thiếu nước. Mùa mưa, họ đắp bờ ngăn suối để giữ nước nhưng đến mùa khô, nước bị con rắn thần hút hết, chỉ còn trơ lại lớp sỏi cát khô khốc. Dân trong các buôn lại lại thất thểu đào bới, vét từng bụm nước đục ngầu bám đầy rong rêu trong các hang hốc. Có nhiều năm phải chặt những đoạn dây rừng, dùng ống bương hứng lấy chút nước ít ỏi để khỏi phải chết khát.Y Rít là chàng trai thông minh, quả cảm luôn ray rứt với đời sống cơ cực của dân làng.
Trước cảnh tình cơ cực của người dân, Y Rít quyết tâm lên đường đi tìm nguồn nước. Chàng đi từ núi cao xuống lũng sâu, từ trảng tranh xơ xác này tới đồi núi chập chùng nọ. Đói chàng hái lá rừng ăn tạm, khát chàng chặt những dây leo chằng chịt tìm chút nước cho đôi môi khỏi bị nứt nẻ. Chàng đi và đi mãi. Hết ngày này sang ngày khác. Ngày đi đêm nghỉ, ròng rã nhiều tháng liền.
Cho tới một ngày kia chàng mệt lả vì đói và khát, nằm gục bên gốc cây già, thiếp đi. Trong cơn mê, chàng bỗng nhìn thấy một khối lửa đỏ rực từ trời cao bay xuống. Và từ trong quả cầu lửa rực rỡ kia, Giàng bước ra, khoan thai đến trước mặt chàng nói: “Hỡi chàng trai quả cảm của Giàng, con hãy bước tiếp đi về phía mặt trời, cho tới khi nào nghe thấy tiếng chim hót rộn ràng, tiếng muôn thú hoan ca thì dừng lại. Đàn bướm đủ sắc màu sẽ đưa con tìm đến nơi con cần tìm”. Nói vừa dứt câu, Giàng khoan thai bước vào trong quả cầu lửa và bay lên trời cao. Y Rít bừng tỉnh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy một cao nguyên bao la, cây cỏ xanh rì. Tuyệt nhiên không còn nghe và thấy điều gì khác hơn. Y Rít quơ vội những nắm lá rừng trước mặt mình cho vào miệng nhai ngấu nghiến rồi vội vã bước thấp bước cao về phía mặt trời với thể xác sắp suy kiệt.
Cuối cùng chàng tìm thấy một dòng sông nước trong vắt cùng với đàn bướm đủ màu sắc bay lượn chung quanh. Y Rít từ trên bờ cao lao xuống dòng nước trong, đắm mình trong đó nghe các đường gân, thớ thịt như đang từ từ dãn ra. Bỗng có một con lươn to hơn con voi rừng, dài hơn những sợi dây mây, xé nước lao tới đâm bổ vào người chàng. Y Rít nhoài người né sang bên với nỗi bàng hoàng khôn tả xiết. Con lươn quay đầu lại, ngược dòng nước lao tiếp vào tấn công chàng. Y Rít nhún người phóng lên bờ cát. Con lươn lao theo quấn chặt chân chàng giữ lại, cố xé toạc bàn chân chàng. Y Rít dùng hết bình sinh uẩy con lươn văng ra khỏi chân. Nhưng nó đâu dễ chịu thua. Cuộc chiến dằng dai bất phân thắng bại, kéo dài mãi đến ngày thứ bảy thì cả hai bên gần như kiệt sức. Nhưng Y Rít với sự sống còn của bộ tộc mình quyết tâm không để con lươn kia giết chết chàng trước khi bộ tộc biết được nguồn nước. Và hình như con lươn kia cũng linh cảm được rằng, nếu không giết chết được chàng trai trẻ kia thì vĩnh viễn giang sơn của mình sẽ bị loài người chiếm giữ. Điều này đồng nghĩa với đất sống của nó không còn nữa. Cả hai đều cảm nhận được điều hệ trọng này nên ra sức lần cuối cùng, quyết quật chết kẻ thù. Chàng Y Rít đứng trên tảng đá thủ thế chờ con lươn lao tới, và nó đã lao tới với tất cả sức lực còn lại. Y Rít dẫm mạnh chân xuống tảng đá, tóm được đuôi con lươn, nắm chặt và nhấc bổng lên quay nhiều vòng trên không. Con lươn rời khỏi làn nước trong, hình như không còn sức lực như bình thường, nhẹ hẫng. Y Rít nghiến răng, bám chặt chân trên đá và quật mạnh con lươn xuống tảng đá kề bên rồi nằm lịm đi. Chàng nằm ngất không biết bao lâu…
Trong khi đó dân làng đang chờ đợi tin vui của Y Rít tìm ra nguồn nước. Nhưng ngày này qua tháng nọ, bóng dáng chàng vẫn biệt tăm trên cao nguyên bao la và núi rừng hùng vĩ. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa, các trai làng chia nhau đi tìm chàng, bởi Y Rít đối với họ là cuộc sống, là niềm tin, là sức mạn. Toán trai làng khăn gói tỏa đi các hướng và một ngày kia họ tìm thấy xác chàng trên tảng đá, bên cạnh là xác con lươn khổng lồ trên dòng sông nước cứ vô tình trôi. Họ bàng hoàng nhìn cảnh tượng bày ra trước mắt như thể đó không thể là sự thật. Nỗi đau khổ chen lần niềm vui sướng trào lên. Y Rít quả cảm đã hiến dâng thân xác cho Giàng để dành lấy sự sống cho cả bộ tộc.

Ngoài ra còn có dị bản khác như
Sau khi Y Rít quật chết con lươn khổng lồ, chàng lịm đi không biết bao nhiêu ngày tháng. Khi tỉnh dậy, chàng nghe văng vẳng bên tai: “Con hãy vốc nước rửa mặt, hái ngọn rau rừng bên bờ sông nhai và uống nước sông này sẽ mau chóng phục hồi sức lực. Con hãy mau làm đi để còn kịp về báo tin vui cho dân làng. Y Rít mở mắt ra nhưng không thấy một ai ngoài mình chàng và xác con lươn nằm bất động trên tảng đá kề bên. Chàng làm đúng theo lời dặn và vội vã lên đường trở về buôn làng cũ báo tin chiến thắng, tìm ra nguồn nước cho cuộc sống dân làng.
Dân làng trong bộ tộc mừng vui khôn xiết, liền mổ trâu bò, mang ra những ché rượu ngon nhất, nổi lửa nhảy múa suốt mấy ngày liền trước khi lên đường đến nơi định cư mới. Cả bộ tộc coi chàng như vị cứu tinh, như một Giàng giáng thế để mang lại sự sống cho họ bởi sau này, những cánh đồng cỏ bao la sẽ dần dần thay thế bằng những cánh đồng trồng bắp lúa tươi tốt. Khi cả bộ tộc đến nơi thì xác con lươn không còn nữa, chỉ thấy vết lõm in hình bộ xương lươn khổng lồ, tảng đá kế bên là bàn chân lõm sâu của Y Rít.
Một dị bản khác kể rằng, Y Rít là con của một vị tù trưởng, 18 tuổi chàng đã cao lớn, sức vóc hơn người; đặc biệt với sức mạnh phi thường của mình, không những tiếng tăm vang xa tới các bộ tộc khác mà còn khống chế được tất cả mọi loài thú dữ. Mỗi khi chàng đi săn, không một con thú nào có thể thoát được. Ngoài sức mạnh và tài nghệ bẩm sinh, Y Rít còn là chàng trai thông minh, có lòng nhân hậu, luôn yêu thương đùm bọc tất cả mọi người trong bộ tộc, khoan dung đối với các kẻ thù hiếu chiến của các bộ tộc khác…Cuộc hành trình tìm ra nguồn nước của Y Rít cũng được kể như trên, nhưng điểm khác biệt sau khi giết chết con lươn, Y Rít đưa dân làng đến lập làng mới ven sông Ba rồi lặng lẽ bỏ đi, chỉ để lại dấu chân rất to in trên tảng đá cạnh tảng đá hình bộ xương con lươn khổng lồ.
Ngày nay, tảng đá in hình dấu chân Y Rít đã trở thành biểu tượng linh thiêng của dân làng. Mỗi khi gặp những trắc trở tình duyên, chuyện làm ăn… người dân buôn Chơ đều đến bến nước, đặt bàn tay lên bàn chân khổng lồ của chàng Y Rít cầu nguyện và được giúp đỡ.


--------------------------------------------------------------------------------

TRUÔNG BÀ VIÊN PHÚ YÊN:
Truông Bà Viên nằm ở đoạn đường từ thôn Phong Hậu lên thôn Phước Hoà thuộc xã Sơn Định, huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên. Trước đây rừng chưa bị chặt phá thì khu vực này cây cối rất rậm rạp, là nơi cư trú của các loài thú dữ như cọp, beo, rắn độc… mà nhiều nhất là cọp: “cọp núi Lá, cá sông Hinh”.
Vì đây là con đường độc đạo, nên từ Sơn Long muốn lên Sơn Định, đều phải qua truông bà Viên, đoạn đường dài khoảng 2 cây số, đường hẹp, dốc ngược, lởm chởm đá và lắm hiểm nguy. Người đi đường có thể bị cọp từ các bụi rậm lao ra tấn công bất ngờ. Vì thế mỗi khi muốn qua truông, người ta tổ chức thành từng đoàn, vừa đi vừa khua chiêng gõ mõ để cọp dữ không dám lao đến tấn công.
Truyền thuyết Bà Viên
Người dân trong khu vực này thường kể lại cho con cháu nghe, rằng: ở hai đầu truông có cắm những cây gậy vót nhọn, như một dấu hiệu và vũ khí phòng thân giúp cho khách bộ hành qua truông an toàn. Nghĩa là: Khi qua truông người bộ hành vác cây gậy chĩa đầu nhọn lên trời, cọp thấy cây nhọn không dám vồ hoặc nếu có vồ thì cũng đỡ nguy hiểm hơn. Khi qua được khỏi đầu truông thì cho dựng đứng cây gậy lên để cho người khác sử dụng.
Tương truyền, khi nghe có thú dữ hoành hành, bà Viên đã đến đây để ra tay đánh cọp, cứu khách bộ hành. Không rõ lai lịch của bà Viên gốc người ở đâu? Gia cảnh, chồng con ra sao? Chỉ biết bà là người phụ nữ như bao người phụ nữ bình thường khác. Bà đến nơi này, lập một cái quán nhỏ đầu truông bán hàng rong, nước uống cho khách qua đường lỡ bước và đã rất nhiều lần, bà xua đuổi đàn cọp không để đến gần khách qua truông. Trong đàn có một con cọp đầu đàn là hung dữ hơn cả, đã nhiều lần tấn công bà Viên mà không sao hạ thủ được, trái lại còn bị bà đánh cho gãy một chân trước. Để trả thù, nó rình rập quanh ngôi quán nhỏ của bà trong nhiều ngày liền, nhưng không tránh khỏi sự phát hiện do mùi hôi thối nồng nặc của nó bay ra. Bà vẫn bình thản bán nước và một ngày nọ, sau khi đưa khách qua đường quay về giữa trưa, liền bị con cọp ba chân lao ra tấn công. Bà đã quần thảo với cọp đến xế trưa thì hạ gục được nó. Từ đó đàn cọp bỏ vào rừng sâu, không còn bén mảng đến chốn này để quấy nhiễu nữa. Còn bà Viên, sau đó không ai biết bà đi đâu. Có người cho rằng bà là người nhà trời sai xuống để cứu độ dân lành. Dân địa phương nhớ ơn bà, lập ngôi miếu thờ ở đầu dốc, nhưng qua mưa nắng, ngôi miếu thờ nay chỉ còn một nền đất bằng phẳng.


--------------------------------------------------------------------------------

LÀNG CỔ VÂN HÒA PHÚ YÊN:
Vân Hòa là ngôi làng nhỏ thuộc xã Sơn Long, huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên. Làng nằm ở độ cao hơn trăm mét so với mặt nước biển, nên có khí hậu quanh năm mát mẻ. Đây là điểm duy nhất của Phú Yên có khí hậu tựa như Đà Lạt, Bà Nà.
Ngày trước, làng Vân Hoà có nhiều cánh rừng nguyên sinh với nhiều loài hoa lan hiếm như Hồ Điệp, Tai Tượng, Kim Điệp… Đặc sản nổi tiếng của Vân Hòa là mít và thơm. Mít Vân Hòa ngọt, dòn, vàng ươm màu mật ong; thơm Vân Hòa ít mắt, ngọt. Ngoài ra, làng còn có một loại trái cây rừng là trái đỏ. Đến mùa trái chín đỏ, mọc dày thành từng chùm từ gốc lên đến tận nách thân, trông rất đẹp mắt.

TRUYỀN THUYẾT:

Theo truyền thuyết, trong làng xuất hiện một con thuồng luồng hung dữ. Nó sống trong một cái hang sâu, nay gọi là hang Thuồng Luồng. Con quái vật này to lớn khác thường, dài đến hơn trăm bước chân, thân hình to bằng gốc bằng lăng bốn người giang tay ôm không hết, mình đầy gai và vẩy lấp lánh lân tinh, mõm ngoác rộng đỏ lòm và xông mùi hôi thối nồng nặc. Mỗi khi thở, một loại khí độc tựa khói đen phun ra từ hai lỗ mũi nhô lên như hai lỗ cống rất tanh tưởi. Đặc biệt tiếng kêu của nó mỗi khi phát ra với những âm thanh ồ ồ làm cong cả những đọt cây, ngã rạp những đám bắp đang trỗ cờ…
Hàng đêm, quái vật thường bò ra khỏi hang vào tận trong làng bắt gà vịt, rồi heo dê, đến trâu bò và bắt cả người lớn trẻ con ăn thịt. Trong số gia súc của dân làng Vân Hòa có một con trâu trắng to lớn gấp hai lần trâu thường, còn sức mạnh của nó thì cả đàn xúm lại cũng không thể nào địch lại nổi, nó từng giết nhiều cọp dữ để bảo vệ đàn. Vậy mà một đêm kia, con thuồng luồng mò vào tấn công bằng cái đập mạnh chiếc đuôi vào thân mình con trâu. Chỉ trong chớp mắt con vật đáng thương kia ngã lăn ra. Con thuồng luồng lập tức cuộn lại và nuốt chửng.
Cũng may, con ác xà này chỉ có sức mạnh khi trườn bò dưới đất, chứ không thể leo trèo như trăn rắn được, nên dân làng đối phó bằng cách lánh ra khỏi nhà, leo lên những ngọn cây to cao để lẩn tránh.
Một ngày kia có người mách rằng, làng Thượng có một người đàn ông, góa vợ, chỉ có một đứa con trai, chuyên nghề bắn nỏ, có thể trừ được con quái vật. Dân làng Vân Hoà bèn cử người khăn gói ra đi, thỉnh mời ông đến cứu giúp. Sau khi nghe câu chuyện, ông nhận lời và lập tức lên đường với người con trai, mang theo cung tên.
Đến làng, cha con ông Chăm Mùng ra ngay cửa hang thuồng luồng ngồi đợi, nhưng ngày này qua ngày khác, bóng dáng con thuồng luồng vẫn biệt tăm, chỉ có mùi hôi thối xông ra phía cửa hang. Để đề phòng con vật bất ngờ tấn công, cha con ông cùng dân làng cất một chòi cao bằng những cột gỗ ké thật chắc, vừa sinh hoạt vừa canh chừng, còn dân làng thì tiếp tế lương thực nước uống bằng cách gõ mõ từ xa để cha con ông biết mà mang lên chòi. Một tháng hai tháng rồi ba tháng… trôi qua, con thuồng luông vẫn biệt dạng, khiến ông Chăm Mùng thất vọng gói ghém hành lý trở về buôn cũ.
Khi ông vừa bước xuống khỏi bậc thang cuối cùng, đặt chân lên mặt đất bỗng nhiên mùi hôi thối xông lên nồng nặc, con thuồng luồng lao ra như mũi tên, nhằm thẳng chỗ ông đứng phóng tới. Ông Chăm Mùng chỉ xoay thân mình, lạng qua một bên rồi giương cung nhắm vào một bên mắt thuồng luồng bắn liền mấy phát. Mũi tên găm vào một bên mắt thuồng luồng khiến nó đau đớn và hung tợn hơn, quật đuôi làm lung lay chiếc chòi đứa con trai ông còn đang đứng trên đó. Bắn hết tên trong ống cũng chỉ trúng thêm mắt thứ hai, làm nó bị mù, quẫy mạnh cả thân hình làm thành một một vệt dài sâu tựa lòng con suối lớn (sau này dân làng Vân Hòa gọi là suối ông Năm (ông Chăm?) và khi thành lập nông trường cà phê Vân Hòa chiếc hố này được vét sâu và rộng đến mấy mẫu tây làm hồ chứa nước tưới cho cây cà phê). Mặc dù bị mù nhưng con quái vật vẫn chưa ngã quỵ, mới hay đó là loại tên bình thường để săn bắn thú rừng. Ông gọi đứa con ném ống tên thứ hai xuống. Và chỉ với lần lảy nỏ đầu tiên, mũi tên bay vút đi, trúng ngay vào đầu con vật. Trong nháy mắt thuốc độc ngấm vào cơ thể làm nó nằm gục chết ngay tại chỗ.
Sau khi trừ khử được con ác thú, cha con ông Chăm Mùng cáo từ dân làng trở về buôn cũ, mặc cho tất cả mọi người nài nỉ cha con ông hãy ở lại sống với dân làng. Nhớ ơn cứu tử, hàng năm dân làng đều mang lễ vật đến tận nơi ở xa xôi của cha con ông. Về sau khi ông chết (già), mỗi khi cúng thổ trạch, gia tiên, ngày lễ tết… mọi người dân làng Vân Hòa đều sắm một mâm riêng để dâng cúng vong linh ông gọi là mâm cơm cúng “phụ tử Chăm Mùng”. Tục lệ này kéo dài mãi đến những ngày gần đây mới bỏ hẳn.
Chợ quê
--------------------------------------------------------------------------------

LÀNG CỔ LONG THỦY PHÚ YÊN:
Làng Long Thuỷ xưa có tên là Mỹ Á, thuộc xã An Phú, huyện Tuy An, nay thuộc TP Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. Từ trung tâm thành phố theo đường Hùng Vương ra QL1A, đi khoảng 7km đến khu vực đồi Thơm, rồi xuôi theo hướng Đông, đến sát bờ biển. Còn đi theo đường Độc Lập ra hướng Bắc thì chỉ 5km.
Làng Long Thuỷ nằm sát biển. Phía Bắc giáp thôn Ma Liên, Mỹ Quang xã An Chấn, huyện Tuy An. Phía Nam giáp ranh phường 9 còn mặt Đông là biển cả mênh mông. Long Thuỷ nổi tiếng có dừa xiêm uống nước rất ngọt, mát. Vườn dừa Long Thuỷ rợp bóng mát, quanh năm che phủ cả thôn.
Long Thuỷ quanh năm lộng gió, một loại gió hiu nhẹ từ biển thổi vào nên không khí rất trong lành. Ngoài khơi có hòn Chùa án ngữ trước mặt, cách bờ khoảng trên dưới 7 km nên bãi biển nông, thoai thoải… Lớp cát vàng mịn trên bãi rất sạch sẽ để du khách tắm biển, tổ chức vui chơi ngoài trời, cắm trại dã ngoại…
Phía giáp với Mỹ Quang có con suối nhỏ xuất phát từ các thôn Phú Phong, Phú Thạnh, Phú Qúi chảy qua cầu Đồng Nai rồi lặng lờ tuôn ra biển Mỹ Á. Con suối này không có tên gọi nhất định, lúc thì gọi là lạch Phú Quý, lúc gọi lạch Đồng Nai, lạch Mỹ Á… Suối không rộng, có thể nhảy từ bờ bên này sang bờ bên kia ở chỗ đoạn cầu Đồng Nai, nhưng ra gần cửa thì nới khoảng cách hai bờ ra xa hơn. Mực nước trong suối lúc cao nhất cũng chỉ tới thắt lưng, nhưng nước trong leo lẻo, thấy từng đàn cá lội; hai bên bờ lại có hàng dừa cao nghiêng mình soi bóng.
Đến Long Thuỷ, du khách còn được thưởng thức nhiều đặc sản như: nước dừa xiêm, mực hòn Chùa, cá thu Mỹ Á....cùng nhiều loại hải sản khác.
Ca dao có câu:
Muốn ra Mỹ Á ăn dừa
Sợ con sóng dữ nó lùa trở vô
Hay:
Muốn ra Mỹ Á ăn dừa
Sợ truông cát nóng, sợ đường đá dăm
Cát nóng đưa dép anh mang
Đá dăm em lượm còn than nỗi gì?

Dân ca Phú Yên đã có một bài hát tựa là Nẫu Ca theo làn điệu bài chòi xuân nữ trong đó có một đoạn nói về con mực Long Thuỷ – Hòn Chùa:
Hồi nào qua Phú Lễ ăn ổi chua
Xuống Đại Lãnh uống nước ngọt
Ra Hòn Chùa ăn mực nang
Chớ bây giờ em không ngó em không ngàng
Chồng nghèo cực khổ, gian nan cơ hàn.


TRUYỀN THUYẾT:

Về tên gọi Long Thuỷ, có truyền thuyết kể rằng, ngày xưa, đất Phú Yên bị hạn hán nhiều năm liền khiến dân chúng rất lầm than cơ cực vì không có nước để gieo trồng. Người dân lập đàn cầu mưa bao lần mà không được. Một trưa nọ, không rõ từ đâu có hàng ngàn hàng vạn con cóc vàng tràn về các nơi trai đàn, hòa giọng cùng tiếng trống sấm tạo thành âm thanh thôi thúc, bức bách. Thế là trời bỗng tối sầm, gió thổi ào ào, mây vần vũ, sấm chớp vang động. Từ trong những lằn chớp và mây đen kia bỗng xuất hiện con rồng khổng lồ, đầu chúc xuống biển hút nước rồi bay cuộn lên phía núi Chóp Chài, vươn thẳng lên không trung phun nước làm mưa. Những nơi rồng phun nước thẳng xuống, do áp lực quá mạnh nên tạo thành sông (sông Ba, sông Cái…), nhẹ hơn thì thành hồ ao. Nhờ vậy nên người dân có nước để gieo trồng, cày cấy. Khi rồng chúc đầu hút nước, đầu rồng nhằm vào biển Long Thủy nên có tên gọi như ngày nay.
Một câu chuyện khác lý giải như sau, bữa nọ, hai cha con họ Trần đi biển. Sau khi kéo lưới lên thuyền, vừa gỡ cá xong, chưa kịp quay vào bờ thì từ ngoài biển Đông bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo đến, sà thấp sát mặt biển. Hai cha con trông thấy con rồng đen khổng lồ thò vòi dài từ trên cao hút nước biển. Rồng đen chưa bay lên phun nước thì bỗng đâu con rồng khác màu đỏ lao tới, giương nanh vuốt ra tranh với rồng đen hút nước. Hai con tranh nhau làm cho mặt nước hõm xuống, nước cuộn thành vòi bốc lên cao, sôi réo ầm ầm. Sóng cao chục trượng ập vào bờ, mưa xối như trút. Thuyền của cha con ông họ Trần bị đập văng lên bờ. Nhưng may là không ai bị thương vong. Sau này dân xứ này lập miếu thờ. Từ đó hai rồng thôi cuộn xoáy, tranh giành hút nước mà chỉ làm mưa, mưa đến chín chiều vào tháng Tư tháng Năm âm lịch hàng năm.


--------------------------------------------------------------------------------

BÀU HƯƠNG PHÚ YÊN:
Bàu Hương là một thắng cảnh đẹp thuộc thôn Mỹ Thạnh, xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Bàu được tạo thành do một đoạn phình to của một dòng sông nhỏ uốn quanh ngọn núi Hương. Người ta lấy tên núi để đặt tên cho Bàu. Bàu Hương có cảnh trí thơ mộng, sâu đến 18 sải, nước ngập quanh năm, cá tôm nhiều vô kể.

TRUYỀN THUYẾT:

Theo tục truyền thì xưa kia, nơi đây có một con rùa khổng lồ, thường nổi lên mặt nước, làm thành một tấm phù thạch để chư tiên ngồi uống rượu đánh cờ trong những đêm trăng êm dịu hay những ngày xuân mát mẻ.
Một truyền thuyết khác kể rằng, xưa có một chàng trai nghèo khổ, mồ côi cả cha lẫn mẹ. Để có cái ăn, cái mặc hàng ngày, chàng trai phải cật lực vỡ hoang, trồng tỉa khoai sắn, chăn nuôi gia súc. Nhờ chăm chỉ làm ăn và gặp mưa thuận gió hòa, nên chẳng bao lâu sau cơ ngơi của chàng đã khấm khá: ruộng đất được vài mẫu, nhà cửa dựng lại khang trang hơn trước, nương lúa, nương dâu mượt màu xanh mơn mởn. Vào một đêm trăng sáng, các nàng tiên nữ rủ nhau ngắm cảnh hạ giới. Đến chân núi Hương, nhìn thấy cảnh đẹp chẳng khác chốn bồng lai, các tiên nữ bèn dừng chân men theo các nương lúa rẫy bắp của chàng thanh niên nọ. Trong số họ có nàng tiên út, vì mải mê ngắm cảnh trần gian, vô ý để tà áo của nàng vướng lên những luống bắp, luống khoai. Và lạ thay, tấm áo của nàng từ màu trắng muốt bỗng dưng hóa thành màu xanh của cây lá và không thể nào cất mình bay lên được nữa. Các chị đành để nàng ở lại đó, và trước khi chia tay, một người trong bọn họ trao cho nàng viên ngọc quí và dặn rằng: “Em hãy giữ vật này hộ thân. Khi nào về trên ấy, may xong áo các chị sẽ mang xuống cho em mặc, đón em về”. Nói xong các nàng tiên bay về trời.
Sáng hôm sau, chàng trai vác cuốc thăm rẫy, thấy một con thỏ có bộ lông màu xanh mượt rất lạ mắt đang gặm cỏ, đùa giỡn với muôn ngàn cánh bướm. Chàng đến gần, con thỏ không chạy trốn mà tỏ ra rất thân thiện. Chàng bèn mang về nuôi. Hàng ngày chàng chăm sóc thỏ rất chu đáo. Một ngày kia, chàng trở về nhà lúc chiều xâm xẩm tối, thì thấy nhà cửa đã được quét dọn sạch sẽ, trên bàn có mâm cơm bày sẵn. Lòng phân vân, nhưng bụng đang đói nên chàng ngồi vào bàn ăn uống ngon lành.
Những ngày tiếp sau, khi trở về nhà chàng đều thấy cảnh tượng như ngày đầu tiên. Sinh nghi, ngày hôm sau chàng dậy từ sáng tinh mơ vác cuốc lên nương, nhưng nửa đường chàng quay về, nhìn thấy con thỏ đang thoát xác biến thành người thiếu nữ đẹp tuyệt trần. Chàng chạy tới cầm lấy tay nàng khiến nàng không kịp trở lại xác thỏ. Từ đó hai người quyến luyến, yêu thương nhau và trở thành vợ chồng, sinh được mụn con trai kháu khỉnh. Ban ngày chàng làm công việc đồng áng, nàng ở nhà thêu thùa, cơm nước, cuộc sống rất hạnh phúc. Của cải tạo dựng được càng nhiều hơn. Và do đó tiếng đồn lan xa, tới tai tay trọc phú trong vùng.
Một bữa nọ, tên này giả danh người đi mua thổ sản, tới nơi ở của hai vợ chồng, hắn nhìn thấy vợ chàng nông phu là một thiếu phụ đẹp có một không hai, bèn sai những tên đầy tớ theo hầu bắt trói nàng mang về làm thiếp. Trong cơn nguy khốn, nàng chợt nhớ đến viên ngọc các chị trao cho trước khi về trời, liền chạm tay vào khấn: “Ngọc ơi! Hãy cứu ta”. Tức thì trời đất bỗng tối sầm lại, sấm chớp đùng đùng, giông gió nổi lên đẩy ngã tên trọc phú và đám lâu la chết chìm trong hồ nước. Hai vợ chồng lại sống cuộc sống an bình với đứa con ngày mỗi lớn khôn.
Ngày kia chàng ra đồng, vợ ở nhà khâu vá, nội trợ, bỗng đâu có cơn gió thoảng qua và các nàng tiên năm xưa xuất hiện trước khung cửi, nói: “Các chị đã cố gắng may xong áo sớm nhất cho em để kịp về mừng thọ cha mẹ”. Nàng đang bịn rịn, chần chờ bên đứa con thơ chưa kịp suy tính thiệt hơn thì các nàng tiên khoác tấm áo mới cho nàng và nhấc bổng bay về trời. Nàng chỉ kịp ném viên ngọc quý xuống đất cho chồng phòng thân sau này.
Khi trở về, chàng chỉ thấy đứa con đang thơ thẩn trong sân mà không có mẹ bên cạnh. Chàng chạy ra mé bàu nước, lập tức một bông sen trắng muốt từ dưới hồ vươn lên xòe cánh và tỏa ra mùi hương thơm ngát, sau đó là cả một bàu sen trắng, hương bay khắp vùng…”. Có lẽ từ tích này, nên nhân dân trong vùng đặt tên là bàu Hương, trở thành cảnh đẹp có tiếng. Sau này trong dân gian có câu:
Ngó lên Mỹ Thạnh cảnh tiên
Cảnh tiên chưa thấy, thấy duyên của nàng
Muốn gây tơ tóc cùng nàng
Sợ e duyên kiếp bẽ bàng mai sau



--------------------------------------------------------------------------------

GÒ CÀ PHÚ YÊN:
Gò Cà nằm ở phía Nam dãy núi Cù Mông thuộc địa phận xã Xuân Lộc, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Từ trung tâm xã Xuân Lộc, đi về phía Tây khoảng trên 2 cây số có một gò đất nổi cao nằm dưới chân núi, là nơi xưa kia chôn cất các chiến sĩ tử nạn thời Nam tiến.
Tương truyền, khi vua Lê Thánh Tông, và sau này là Lương Văn Chánh, Văn Phong mang đại quân vào phía Nam mở mang bờ cõi, … trong các trận giao tranh lớn nhỏ, quân sĩ hai bên tử trận đều được chôn cất tử tế, đặc biệt với quân Đại Việt đều được an táng trên núi cao, tại Gò Cà. Tại đây, quan quân và nhân dân địa phương xây dựng một ngôi miếu gọi là miếu Phò Giá Đại Vương để thờ các binh sĩ đã hy sinh trong chiến trận. Hàng năm miếu đều được cúng tế linh đình. Thời gian trôi qua khiến cho ngôi miếu đổ nát, làm xói lở các ngôi mộ nghĩa quân nên sau này quan quân đưa tất cả hài cốt vào ba ngôi tháp lớn mà thờ. Chiến tranh nối tiếp chiến tranh, khiến ngôi miếu và ba toà cổ tháp cũng không còn nữa. Hiện nay Gò Cà chỉ còn lại một bãi đất bằng phẳng, cỏ cây, bụi rậm mọc um tùm, ba ngôi tháp cổ chỉ còn phần đế móng.

TRUYỀN THUYẾT:

Có một truyền thuyết về ngôi miếu này như sau:
Những năm Tây Sơn chuẩn bị khởi binh, chiêu tập nông dân quanh vùng An Khê, Bình Đinh, Vân Canh, La Hiên… vào quân cơ, chia thành đội ngũ để luyện tập theo binh pháp trong nhiều năm ròng rã. Hễ chiều buông xuống, mặt trời lặn sau những dãy núi cao phía tây, hoàng hôn bắt đầu phủ một màn đen khắp cánh rừng đại ngàn thì có một đội binh thứ hai cũng khua gươm giáo luyện tập. Tiếng hò reo, binh khí chạm nhau vang tới doanh trại của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Nhiều đêm như vậy, bà liền bí mật đến nơi phát ra tiếng binh khí chạm nhau kia để xem xét và nhìn thấy trong bóng đêm mờ mờ, hàng hàng đội ngũ binh sĩ tiến lui nhịp nhàng theo tiếng trống trận, đến canh ba là chấm dứt, đội quân kia cũng biến mất.
Bà lấy làm lạ, sai các phó tướng theo dõi nhiều đêm liền. Đến một đêm kia, đang mơ màng trong trướng, bỗng thấy có một người mặc chiến bào. Quỳ xuống trước trướng cúi lạy, thưa rằng: “Chúng tôi là những chiến binh trước đây đã từng theo các ông Lương Văn Chánh, Văn Phong mở đất, nay thấy việc khởi binh của Đại vương Tây Sơn là hợp ý trời, lòng dân nên thiên đình sai chúng tôi theo phò tá nghĩa quân Tây Sơn, dẹp giặc lộng hành Trương Phúc Loan và chúa Trịnh…” Giật mình thức dậy, bà không thấy viên tướng kia đâu nữa. Sáng bà đem chuyện thưa với tướng quân Vũ Văn Nhậm. Cả hai liền mang câu chuyện huyền bí kia tâu lên ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Thấy đây là điềm báo ứng tốt đẹp, Nguyễn Nhạc bèn sai xây một ngôi miếu trên bãi Gò Cà gọi là miếu Phò Giá Đại Vương để thờ vong linh các nghĩa binh, phù trợ cho cuộc khởi binh thắng lợi. Trong các trận đánh lớn nhỏ, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, đội hùng binh này luôn đi tiên phong và giúp nhà Tây Sơn phá tan giặc nhà Thanh, thu hồi giang sơn về một mối.
Phía bên dưới ngôi miếu Phò Giá Đại Vương có một vực rất sâu mà dân trong vùng gọi là vực Linh Thiêng. Hàng năm cứ vào ngày mùng 9 Tết thì dân làng đến cúng tế thần linh gọi là lễ cúng khai sơn. Lễ cúng thường là các chim thú săn được quanh vùng núi này. Người dân lập đàn, bày hương án và các lễ vật vái vong linh các tử sĩ trên ngôi miếu Phò Giá Đại Vương, bà Hậu Thổ, Thổ Địa, cùng các vị chư thần phù hộ cho mùa săn bắt hái lượm gieo hạt mới trong năm, sau đó thì tất cả chim thú dùng tế lễ đều được phóng sanh. Suốt cả ngày mùng 9, tất cả dân đinh quanh vùng đều phải trai tịnh. Và đến giờ hoàng đạo ngày hôm sau mới có thể vào núi khai khẩn, sản xuất. Có nhiều người vì mưu sinh, vì miếng ăn cho gia đình, không thể chờ lâu hơn, nên vào núi trước ngày mùng 9 Tết đều bị rơi xuống vực mà không thấy trở về.


--------------------------------------------------------------------------------



SÔNG BA PHÚ YÊN:
Sông Ba là một trong những hệ thống sông lớn nhất của tỉnh Phú Yên. Sông Ba phát nguyên từ dãy núi Ngọc Rô (cao 1.500 mét) trên cao nguyên Kontum, chảy qua các tỉnh Kontum, Gia Lai rồi vào địa phận Phú Yên. Sông có nhiều tên gọi khác nhau qua các địa bàn của tỉnh. Phần thượng lưu chảy qua địa bàn các huyện Sơn Hoà, Sông Hinh, Phú Hoà, Tây Hoà có tên là sông Ba hay Ea Ba, Krông Pa. Phần hạ lưu từ Đồng Cam đổ ra biển ở phía Nam thành phố Tuy Hoà thì có tên là sông Đà Rằng.
Diện tích lưu vực ở thượng nguồn 13.220km2. Riêng địa phận Phú Yên, lưu vực chỉ có 2.420km2 và dài 90km. Sông Ba khi chảy đến Cheo Reo (Phú Bổn) nhận thêm nước của phụ lưu Ayun Pa; đến giữa địa giới Phú Yên-Gia Lai, nhận thêm nước của sông Krông Năng (dài 130km); đến địa phận huyện Sơn Hòa nhận nước của sông Hinh (dài 85km, phát nguyên từ núi Chư Mu, Dak Lak) và sông Cà Lúi, sông Thá.
Ở thượng lưu, sông hẹp, sâu, lắm ghềnh nhiều thác, có những đoạn hai bờ dốc thẳng đứng và sâu hoắm như đoạn đèo Tô Na (địa phận Cheo Reo); nhưng khi vào địa phận Phú Yên, do tiếp nhận nước từ các sông khác đổ vào nên sông lớn hơn, lòng sông bằng phẳng, giữa dòng có nhiều cồn lớn nổi lên như cồn Phú Lễ, cồn Ngọc Lãng tạo thành làng mạc trù phú.
Phù sa sông Ba tạo nên cánh đồng phì nhiêu với diện tích trên 20.000ha. Chẳng những thế trên sông Ba còn có hai công trình thủy điện quan trọng là Ayun Pa và thủy điện sông Ba Hạ.
Sông Ba còn là nguồn cảm hứng cho các nhà thơ hiện đại và thơ ca dân gian:
Nước sông Ba chảy qua Thạch Hội
Lỡ quen biết rồi, nỡ vội đi đâu...

TRUYỀN THUYẾT:

Sông Ba cũng có nhiều huyền thoại, và mỗi đoạn sông đều có một huyền thoại riêng:
Chuyện kể rằng, xưa kia vương quốc Hỏa Xá (Pơlao Apưi) thuộc lãnh địa của người Giarai thường xuyên bị nắng hạn thiêu đốt khiến cỏ cây muôn vật đều bị cháy khô, chết khát. Trong khi đó ở địa vực phía Tây-Nam thuộc vương quốc Thủy Xá (Pơtao Eâ) luôn có thần mưa làm mưa đều đặn, chẳng những thế mà Trời còn tạo ra biển Hồ mênh mông cho vương quốc này. Siu Luynh là thần dân của vương quốc Hỏa Xá được các thần linh chỉ bảo là phải tìm cho ra lưỡi gươm thần có khả năng tạo ra nước và lửa. Siu Luynh bái yết quốc vương nói rõ ý định rồi một mình lên đường tìm kiếm chiếc gươm thần kia. Ông đi mãi, đi mãi hết ngọn núi cao này đến rừng già khác, lội suối trèo non những mong cầm được thanh kiếm trong tay để tạo nguồn nước cho cả vương quốc đang chờ chết. Cuối cùng, Siu Luynh đã tìm được lưỡi gươm về dâng lên cho vua Hỏa Xá. Từ khi có được thanh gươm thần trong tay, vương quốc Hỏa Xá không còn bị hạn hán như xưa. Nhưng thanh gươm thần thì không còn tìm thấy nữa, vì vua Lửa đã cất giấu trong hang núi gần bờ sông Ba đoạn hợp lưu với Ayun hạ khi ông chết. Ngày nay, người dân ở khu vực này vẫn còn tin thanh gươm đang ẩn mình đâu đó trong hang núi sâu, dưới đáy con sông Ba và hy vọng một ngày nào đó, thanh gươm thần kia sẽ quay về với họ.
Một truyền thuyết khác khá thú vị kể rằng, ngày xưa Trời phân định sông Ba là sông anh, các sông Cà Lúi, sông Ea Nho, sông Krông Hinh, sông Krông Năng, sông Con, sông Cau đều là sông em. Tuy phân định vai vế lớn nhỏ, nhưng tất cả các sông phải đúng giờ mới được chảy cùng một lúc để mang nước cho người dân, cuộn phù sa bồi đắp đồng ruộng, có đủ nước uống cho trâu bò chim muông và tưới cây cối… theo từng khu vực được chỉ định trước. Thời gian các sông chảy được ấn định như sau: canh một chuẩn bị, canh hai chuyển mình, canh ba canh tư sẵn sàng và canh năm tất cả các sông cùng chảy một lúc. Nhưng các sông em mải mê chơi không nghe lời dặn rõ ràng của Trời nên chỉ mới bắt đầu canh một, hai sông Ea Nho và Cà Lúi chảy trước. Các sông em còn lại, sông thì chảy canh hai, sông chảy canh ba rất lộn xộn. Duy nhất chỉ có sông anh là sông Ba nghiêm túc, chuẩn bị kỹ càng đúng canh 5 mới bắt đầu chảy. Trên cao, Trời nhìn xuống thấy nước sông Ba vừa mới bắt đầu, nước mới lấp lửng các bãi đá gốc dưới lòng sông, trong khi đó nước các sông em đã tràn đầy khiến Trời tức giận bắt tất cả các sông em đều nhập chung vào sông Ba: sông Cà Lúi (tức sông Ea Talui ="sông" em út) nhập vào sông Ba tại buôn Chơ buôn Học; sông BàLá, Ea Nho nhập vào ở đoạn Phú Túc, Krông Năng nhập vào Krông Hinh và cả hai nhập vào sông Ba tại Thạnh Hội, Nhiễu Giang; sông Con, sông Cau tại Ngân Điền. Sau đó Trời còn bắt các sông Krông Năng, Krông Hinh, sông Cau, sông Con phải chở đất thiệt tươi tốt màu mỡ để tạo thành đồng ruộng Tuy Hòa. Tất cả các sông đều không dám trái lệnh Trời, lập tức làm nhiệm vụ để tạo thành các hợp lưu và cánh đồng màu mỡ ngày nay của Phú Yên.


--------------------------------------------------------------------------------

GÀNH TƯỚNG PHÚ YÊN:
Gành Tướng là một doi đất nhô ra biển phía ngoài vũng La, thuộc xã Xuân Phương, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, phía Đông thị trấn Sông Cầu. Nơi đây còn lưu truyền câu chuyện về bàn cờ tiên khá thú vị.

TRUYỀN THUYẾT:
Chuyện kể rằng, vào ngày mùng hai Tết năm ấy là ngày kị Hà Bá, một ngư dân đi đánh chài vào lúc chiều tối, phát hiện hai ông lão râu tóc bạc phơ, tướng mạo phương phi đang đánh cờ trên gành đá, ông hốt hoảng buông tay chài. Hai ông lão nhìn ông và nói: “Ta là thiên tướng nhà trời, thấy phong cảnh hữu tình nên xuống đánh cờ, ngươi đã trông thấy thì không được kể với bất cứ ai, ta sẽ cho ngươi sống đến trăm tuổi, nếu kể “ắt phải chết” rồi biến mất.
Người đàn ông chài lưới kia hoảng sợ mang chài về, không dám xuống vịnh chài cá như những hôm trước đây. Quả nhiên sau đó công việc làm ăn của gia đình ông ngày mỗi khấm khá, trở thành một ngư dân giàu có trong làng, mua sắm được nhiều ghe bầu chở cá, mắm, muối đi vào tận Đàng Trong bán, rồi chở gạo, vải vóc về bán lại cho các thương buôn khác trong vùng.
Mãi đến năm ông chín mươi mốt tuổi, nhân dịp cúng lăng, ông vô tình kể lại câu chuyện xảy ra cách đây bốn mươi năm. Đêm ấy, trong giấc ngủ chập chờn, ông thấy hai thiên tướng xuất hiện, bảo ông đã phạm lời nguyền. Ông tỉnh giấc, gọi con cháu kể lại giấc mơ rồi nhắm mắt ra đi. Ngày này, trên mỏm đá Gành Tướng vẫn còn in dấu bàn cờ, mặc dù thời gian, mưa nắng, sóng biển đánh vào đã làm cho phiến đá mòn đi khá nhiều.


--------------------------------------------------------------------------------

BÃI TIÊN PHÚ YÊN:
Bãi Tiên cách thị trấn Sông Cầu 15km về phía Bắc, nằm giữa đầm Cù Mông và vịnh Xuân Đài, thuộc địa bàn xã Xuân Phương, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Bãi Tiên có phong cảnh hữu tình, êm đềm, thơ mộng. Ngoài khơi có những dãy núi nhỏ và bán đảo che chắn, trong bờ núi chạy kẹp sát như những bức tường thành.

TRUYỀN THUYẾT:

Theo lời kể của người dân địa phương Bãi Tiên xưa có tên là bãi Trù, bãi Mắm, biển ăn sát vào chân núi. Lúc đó chưa có đường thông quan, cây cối um tùm, nhất là cây mắm, cây sú, vẹt… những loại cây phát triển khá nhanh trong vùng ngập mặn. Càng về sau, do điều kiện sinh sống, người dân quanh vùng khai thác cây làm trại, làm chắn đánh bắt thuỷ sản nên cuối cùng chỉ còn vùng nước mênh mông. Những ghe câu, sõng nhỏ đánh bắt tôm cá trong vũng đầm cùng với việc thả lưới, đánh đăng phát triển nhanh, khiến người dân phải tổ chức canh giữ.
Có truyền thuyết kể rằng, trong một đêm trăng sáng, những ngư dân nằm mơ màng trên ghe, bỗng nghe tiếng nước quẫy như có người đang ngụp lặn trong làn nước xanh, như đàn cá đang khua động mặt nước vượt vũ môn. Thấy lạ, họ mở mắt ra và thấy một cảnh tượng mà họ không thể nào ngờ tới dược. Đó là một bầy tiên nữ xuống tắm trong đầm. Khi họ đến gần để xem thì các nàng tiên biến mất, chỉ để lại mùi hương thoang thoảng mà thôi. Đêm sau và những đêm sau nữa, những ngư dân chia nhau canh thức để hòng khám phá điều kỳ diệu kia, nhưng các tiên nữ không bao giờ xuất hiện nữa. Sau này họ kể lại cho dân làng nghe và đặt bãi Trù thành bãi Tiên như tên gọi ngày nay.
Cũng có truyền thuyết khác kể rằng, ngày xưa có một nho sinh trong làng tư chất thông minh, học giỏi, khôi ngô tuấn tú nhưng nhà thì rất nghèo, phải đi làm thuê cho các nhà giàu để có tiền mua sách vở. Một đêm kia người chủ sai chàng mang lưới ra đầm đóng đăng để bắt cá. Sau khi công việc đóng lưới giăng cá xong xuôi, chàng nằm gối đầu lên be thuyền và ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay, đến khi mở mắt ra thì cũng vừa lúc mặt trăng hạ tuần nhô lên khỏi đường cong chân trời. Ánh trăng như dát vàng lên những đợt sóng lăn tăn trên mặt đầm khiến chàng say sưa ngắm nhìn mà quên cả chuyện đốt đèn ôn lại sách vở. Trăng lên cao thêm chút thì bất ngờ, trước mắt chàng bóng một thiếu nữ nhô lên khỏi mặt nước, thả trôi như một chiếc lá nhẹ tênh. Có lúc, người thiếu nữ lặn đâu mất trong làn nước, khá lâu sau mới trồi lên, xoã mái tóc dài như chiếc thuyền mành rồi thả người trên đó, cho tới khi mặt trăng lẩn vào đám mây thì mất hẳn. Tới rạng sáng không thấy dấu tích gì chứng tỏ là mấy canh giờ trước đó đã từng xảy ra một sự việc lạ. Tuy vậy, chàng nho sinh kia không hé lộ với ai bất kỳ chi tiết nào về chuyện mình đã chứng kiến.
Đêm sau, chàng lại mang đồ nghề và chèo thuyền đi. Mọi việc xong xuôi đâu đó, chàng ngồi căng mắt chờ. Trăng nhô lên khỏi mặt biển đã khá lâu nhưng hầu như không thấy điều gì lạ. Mặt biển vẫn gợn những con sóng vàng lăn tăn, chàng trai chờ mãi, chờ mãi rồi thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi mở mắt ra thì trời đã sáng bảnh.
Hôm sau, chàng lại vác lưới chèo thuyền đi, rồi hôm sau nữa, vẫn không thấy người thiếu nữ tắm trong đầm như cách đó ba hôm… Cho đến một đêm kia, khi mặt trăng chỉ còn là lưỡi cong nhọn treo lơ lửng trên bầu trời trong vắt thì đột nhiên từ mặt nước nhô lên người thiếu nữ như đêm đầu tiên. Hình như có tiếng hát du dương không rõ rệt lan nhanh đến tận nơi chàng nho sinh neo thuyền. Thiếu nữ thả trôi trên mặt nước, hai tay lúc vẩy trong sóng gợn, lúc thả xuôi, nhìn xa như một bức tượng thạch trắng, cho tới khi gà cất tiếng gáy thì nàng biến mất trong làn nước.
Lần này, chàng nho sinh không thể giữ lòng, đem chuyện kể lại cho trai đinh trong làng nghe, và tối đêm đó cả đám trai bạn cùng chèo thuyền ra đầm. Nhưng tiếc thay, bọn họ không bao giờ có được may mắn nhìn ngắm người con gái huyền hoặc tắm trăng nữa.
Mãi sau này, gần tới ngày chàng nho sinh về kinh ứng thí, đêm nằm mộng thấy người con gái đứng ngoài đầm nói vọng vào: “Ta là tiên nữ trên thiên đình, lỡ đánh rơi chén ngọc của Ngọc Hoàng nên bị bắt xuống trần gian mò tìm lại. Trước khi chàng nhìn thấy ta thì ta đã tìm lại được chén ngọc rồi. Ta là tiên, chàng là người trần, không thể gặp nhau, nhưng ta có thể giúp chàng thi đỗ trạng nguyên kỳ này”. Nói xong nàng biến mất. Kỳ thi ấy, chàng nho sinh đỗ trạng nguyên, được vua gả công chúa và cho giữ một chức trọng quan trong triều. Nhớ cảnh cũ và ơn xưa, trong lần qui cố hương, chàng kể chuyện này cho cả tổng nghe và đặt bãi Trù thành bãi Tiên như tên gọi ngày nay.


--------------------------------------------------------------------------------


GÀNH ĐÁ ĐĨA PHÚ YÊN:
Gành Đá Đĩa là một thắng cảnh đẹp nổi tiếng thuộc thôn 6, xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Từ thị trấn Chí Thạnh huyện Tuy An đi theo đường xã lộ Cây Keo-An Ninh về hướng Đông chừng 10 km là tới. Từ thành phố Tuy Hòa, đi trên quốc lộ 1A ngược ra hướng Bắc khoảng 31km, gần đến cầu Ngân Sơn thuộc huyện Tuy An, bạn rẽ vào một con đường rải nhựa dài 12 km, thẳng tắp và khá ấn tượng với những cánh đồng rộng, những đồi núi chập chùng là đến Đá Đĩa.
Gành Đá Dĩa có diện tích khoảng 2 km vuông, chiều rộng tối thiểu 50 mét, chiều dài tối đa 200 mét. Gành có cấu tạo tự nhiên hết sức kỳ lạ: những cột đá hình ngũ giác, lục giác dựng đứng thành từng cột khít nhau, đều tăm tắp như có đôi tay khổng lồ nào đó sắp đặt. Đá đứng, đá ngồi, đá nằm, đá ngông nghênh như những cây cột chống trời, đá bày thạch trận giữa trùng khơi… Nhìn từ xa, Đá Đĩa trông như một tổ ong, lại gần lại giống như những chồng chén đĩa trong các lò sành sứ. Có lẽ vì thế mà có tên gọi như vậy.
Những cột đá ở đây có màu đen huyền hoặc nâu vàng, nửa chìm nửa nổi trên mặt nước biển. Mỗi viên đá có độ dày từ 60-80 cm. Do đứng nhô ra biển, quanh năm sóng vỗ nên đã tạo thành những lỗ khuyết tròn láng. Ở giữa gành có một hõm trũng, nước mưa, nước biển đọng lại lại tạo thành vũng và trong đó có nhiều loại cá nhỏ, có màu sắc sặc sỡ: xanh, vàng, tím, hồng nhạt… bơi lội tung tăng. Xung quanh hõm nước này, đá dựng thành cột liền khít nhau.
Bao quanh gành đá là một bãi cát hình cong lưỡi liềm dài khoảng trên dưới 3 km. Cát trắng mịn, bạc sáng trong nắng ban mai lấp loá, là một bãi tắm rất tốt. Ở Gành Đá Đĩa, bạn có thể ngồi hàng giờ câu cá dò, cá dìa, cá vẩu... hoặc cùng các cậu nhỏ người địa phương đi cạy “vú nàng” – một loài nghêu sống bám vào ghềnh đá, rồi nướng muối ớt xanh tại chỗ để nhâm nhi vài xị đế...
Theo các nhà địa chất học, từ hàng triệu năm trước núi lửa hoạt động trong khu vực này, phun nham thạch ra bề mặt trái đất rồi nguội lại đông cứng thành đá. Trên thế giới hiện nay, ngoài gành Đá Dĩa ở Việt Nam thì Scotland là nơi thứ hai có một địa điểm đá xếp chồng thành những cột thẳng đứng giống như gành Đá Đĩa Việt Nam, có tên gọi là Giant’s Causeway (Con Đường Của những Người Khổng Lồ), đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới vào năm 1986. Riêng gành Đá Dĩa đã được Bộ VHTT xếp hạng thắng cảnh thiên nhiên cấp quốc gia vào năm 1998.

TRUYỀN THUYẾT:
Gành Đá Đĩa không chỉ thu hút du khách bở vẻ đẹp lạ kỳ mà nó còn nhuốm màu huyền thoại với truyền thuyết kho báu biến thành đá. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia, có một người nọ rất giàu có nhưng chẳng may vợ chết sớm, chưa kịp có với nhau mụn con nào. Vốn là người chung thuỷ, ông ta không tục huyền và nảy ra ý định tu tập Phật pháp. Bao nhiêu của cải vàng bạc châu báu, ông đều đem phân phát cho người dân trong vùng để làm kế mưu sinh. Số còn lại ông cất vào kho cạnh bờ biển (tức thôn 6 xã An Ninh Đông ngày nay) với ý định là sau này khi thành đạo, số của cải ấy sẽ đem ra xây dựng chùa chiền và dâng tặng cho vị minh quân nào yêu thương con dân như con đẻ. Sau thời gian dài tu tập thành Đạo, ông theo Phật về cõi Niết bàn chưa kịp dùng số của cải kia cho ý tưởng tốt đẹp ban đầu.
Biết có kho tiền cạnh bờ biển, nhiều kẻ nảy lòng tham, đang đêm hè nhau đến kho cướp bóc, đốt kho, tuy nhiên, tất cả kho báu đã biến thành đá. Ngoài ra còn có nhiều dị bản khác nhau, nhưng nhìn chung đều giải thích rằng, gành Đá Đĩa chính là số của cải vàng bạc của một người thương buôn tốt bụng biến thành. Một số cụ già ở Tuy An thì kể rằng xưa kia vùng đất này có cảnh trí rất thơ mộng, đến nỗi các vị tiên từ thiên đình chọn nơi đây làm nơi đối ẩm đề thơ, ngâm vịnh. Vì thế cho nên họ đã chuyển chén vàng dĩa ngọc từ cung đình xuống để bày yến tiệc, ngắm cảnh. Đến khi các vị tiên này ngao du cảnh trí ở những nơi khác thì bỏ quên số chén dĩa nói trên, lâu ngày hóa thành những cột đá để An Ninh Đông có gành Đá Dĩa tuyệt đẹp như ngày nay.


--------------------------------------------------------------------------------

CHỢ MA LIÊN PHÚ YÊN:
Chợ Ma Liên là tên cũ của chợ Mỹ Quang, thuộc làng Ma Liên, thôn Mỹ Quang, xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Từ Quốc lộ 1A đi về hướng Đông qua chợ Xổm (tức chợ Phú Thạnh) chừng khoảng 2,5km dọc theo bờ biển là gặp chợ Ma Liên. Chợ Ma Liên và chợ Xổm là hai ngôi chợ ở huyện Tuy An họp theo âm lịch, hàng tháng vào các ngày mùng 1, 11, 21 và mùng 6, 16, 26.

TRUYỀN THUYẾT:

Ngày xưa, ranh giới giữa hai làng Phú Quí (Mỹ Quang nay) và Long Thủy có một bãi cát rộng, lô nhô cồn cát. Nơi này dân quanh vùng dùng làm nơi chôn cất người quá cố từ đời này qua đời khác, trở thành một nghĩa trang. Mồ mả lớn nhỏ chi chít liền nhau. Từ thôn Phú Quí xuống Long Thủy đi ngang qua giữa khu mồ mả bằng một đường truông hai bên toàn là gai bàn chải. Tương truyền hoàng hôn, tròn bóng hay nửa đêm, con đường này ít người dám qua lại. Nếu đi phải có vài ba người, mới dám.
Tương truyền, trên đất Ma Liên có cồn Xương nằm bên đông núi Hòn Mây, là nơi ngày xưa các vua chúa triều Nguyễn đã cho chém đầu hoặc chôn sống hàng ngàn người trong phong trào “Bình Tây sát tả” để thanh trừng những người theo Thiên Chúa giáo, đến nỗi xương nổi lên thành cồn cao, gọi là Cồn Xương. Khi phong trào ấy chấm dứt, người dân trong vùng gom góp tiền của xây dựng đình lẫm để cúng tế các cô hồn chết oan ức trong thời kỳ ấy vào tháng 3 âm lịch hàng năm.
Chợ Ma Liên thuở ấy không rộng lắm, bốn gian lều lá xếp thành hai hàng đối diện nhau, chính giữa là lối đi. Chợ họp buổi chiều cho dân quanh vùng mua bán hàng hóa, rau quả, cá tôm…Truyền thuyết kể rằng, xưa thường hay có ma trà trộn vào đi chợ. Khi mua bán xong, người ta kiểm lại thì thấy có một số là tiền vàng mã đã đốt thành tro. Vì vậy nên những người mua bán tại chợ này thường kèm theo thau nước để thử tiền: hễ tiền nổi trên mặt nước là tiền giả của ma tiên, còn loại tiền bỏ vào liền chìm xuống đáy thau là tiền thật. Chưa hết, đám ma tiên ở Cồn Xương còn đứng chặn người đi chợ gửi mua những thứ này nọ, và dẫu cho biết tiền gửi là tiền giả nhưng những người được ma tiên nhờ cậy vẫn phải bỏ tiền túi ra mua rồi đến chỗ cũ, đặt bên lề đường cho ma tiên ra nhận.
Ca dao có câu:
Ma Liên là Ma Liên tiên
Đi chợ mang tiền có kẻ theo bưng
Bán rồi bỏ nước xem chừng
Tiền nổi thì chớ tiền chìm thì vâng
Anh về ở trỏng Ma Liên
Anh nhớ ra liền kẻo để em trông.



--------------------------------------------------------------------------------

ĐẢO HÒN CHÙA PHÚ YÊN:
Hòn Chùa, nằm ở ngoài khơi vùng biển Long Thuỷ, thuộc xã An Phú, TP Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên, cách bờ biển khoảng 6-7 cây số. Trên hòn này, cây cối thuộc loại lùm bụi rậm, có nhiều thỏ rừng và cheo, chồn…
Mạn sườn phía Đông-Nam, có nhiều trảng mọc loại cỏ gai, từ đất liền nhìn ra, hòn Chùa tuyền một màu xanh như một tấm thảm trải trên mặt biển, dẫu rằng cấu tạo của hòn này toàn đá lớn nhỏ chồng chất. Mạn sườn phía Đông-Bắc, là vách đá thẳng đứng do sự xâm thực liên tục của sóng biển đập vào.
Trong lòng biển quanh hòn Chùa, là những ghềnh rạng san hô nhiều màu sắc sặc sỡ, thích hợp cho cua, tôm hùm ẩn trú. Càng ra xa, mực nước càng sâu dần. Hòn Chùa, còn nổi tiếng với con mực nang như đã dẫn ở trên. Du khách có thể dùng thuyền ra đây, theo hành trình dã ngoại khép kín từ Hang Hổ-Long Thuỷ-Hòn Chùa.

TRUYỀN THUYẾT:

Trên đỉnh hòn Chùa, mạn Tây-Nam có một nền đất đá phơi mưa gội nắng thi gan cùng năm tháng, mà nhiều người nói rằng, đó là nền cũ của một ngôi chùa cổ. Có nhiều truyền thuyết quanh ngôi chùa này.
Tương truyền, ngôi chùa là do một bà phi của chúa Nguyễn Ánh đã không còn đủ sức bôn tẩu cùng Vương, nên đã trốn lại ẩn tu trên chùa. Sau khi Vương lấy lại giang sơn, cho người dò tìm khắp nơi và biết được bà đang tu trên một ngôi chùa ngoài biển Mỹ Á, bèn xuống chiếu vời về cung. Sau khi bà đi ,thì không còn ai hương khói lạy phật, và theo thời gian, sóng gió biển vùi dập, ngôi chùa đã bị lụi tàn.
Trong dân gian còn kể thêm một câu chuyện khác, với những tình tiết ly kỳ hơn: Thuở xưa, giặc Tàu Ô hoành hành ngang dọc biển Đông, không ai địch nổi. Chúng cướp phá, bắt cóc đàn bà con gái hãm hiếp rồi quẳng xuống biển sâu mất xác. Một trong số thủ lĩnh cao cấp của bọn giặc Tàu Ô, một ngày kia, đến vùng biển Phú Yên, Bình Định cướp phá, thì bị một thiếu nữ giỏi võ nghệ, xinh đẹp giong thuyền ra gành đá mạn Đông-Bắc hòn Chùa thách đấu với chúa giặc. Hễ người thiếu nữ thua thì sẽ bằng lòng theo tên chúa giặc, còn ngược lại thì phải giải tán bọn lâu la giặc cướp, để dân chúng sống yên ổn làm ăn. Trận đánh ra sao không được mô tả, nhưng tên giặc kia bị đánh cho đại bại, nên xin qui thuận trở về hoàn lương, xây ngôi chùa trên hòn núi này sống cuộc đời còn lại bên cửa phật. Nhưng không rõ do lòng tham chưa dứt hay vướng bận mùi tục luỵ, cảm thương và nhung nhớ cô gái trước kia đánh bại mình, mà một đêm mưa gió, đã bỏ chùa ra đi mất dạng. Cũng có người nói, thần Nam Hải cho nổi sóng vào một đêm tối trời kéo hắn về thuỷ cung trị tội.


--------------------------------------------------------------------------------

LĂNG VĨNH CỬU PHÚ YÊN:
Lăng Vĩnh Cửu thuộc thôn Vĩnh Cửu, xã Xuân Cảnh, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Đây là lăng cô được xây cất thờ phụng long trọng nhất ở Phú Yên.
Theo truyền thuyết, Cô không lợ ở cửa đầm mà đi ngược mãi lên đến Vĩnh Cửu, là vì cô hỗ trợ cho dân thôn Vĩnh Cửu làm ăn giàu có. Tương truyền, mùa đông năm Khải Định thứ 2, Cô đã đu ngược nước từ cửa đầm Cù Mông lên thôn Vĩnh Cửu rồi mới lợ ở đây, là để báo hiệu dân làng giàu có.
Vì thế, sau khi Cô lợ, dân chúng thôn Vĩnh Cửu đã lo việc an táng và xây lăng. Quả nhiên sau đó dân được mùa cá mùa đồng giàu có, nhiều người học thi đậu đạt cao, có gia đình thi đậu tú cử. Cho nên dân càng tin, cúng tế càng linh đình. Năm Giáp Tý 1924, một trận bão làm hư hỏng lăng, nhân dân đã xây dựng lại. Trải qua 2 cuộc chiến tranh các đình, lăng, miếu đều hư hỏng trên địa bàn tỉnh hầu như đều hư hỏng nặng. Sau này, lăng được tu sửa lại và tiếp tục nhang khói.
--------------------------------------------------------------------------------

BÀU TRẠNH PHÚ YÊN:
Bàu Trạnh nằm ở phía dưới Bàu Hương, thuộc xã Hoà Mỹ Tây, huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên.
Truyền thuyết
Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa có một ông lão chuyên sống bằng nghề bắt cá quanh khu vực bàu Hương. Buổi trưa nọ, ông lão mang dẹp đặt xuống bầu xong, lên bờ ngồi nghỉ dưới bóng cây to. Nhìn xuống lòng hồ, bỗng nhiên ông thấy mặt nước xao động, rồi sau đó một con trạnh to ngoi lên, bơi quanh bàu rồi lại lặn xuống. Một lát sau, giữa mặt bàu mặt nước lại xao động và con trạnh lại nổi lên. Nhưng lần này trên lưng nó có hai ông lão râu tóc bạc phơ, cốt cách nho nhã, ngồi đánh cờ trên lưng trạnh. Ông lão đánh cá sửng sốt nhìn hai người đang mải mê đánh cờ, chợt cơn ho đột ngột nổi lên. Nghe tiếng động con trạnh lập tức lặn xuống đáy bàu và hai ông lão đang đánh cờ khi nãy cũng biến mất. Liền lúc đó, trời đất bỗng tối sầm, sấm chớp đùng đùng nổi lên, mưa gió kéo đến phủ kín khắp cả vùng. Nước bàu Hương đang trong xanh leo lẻo liền biến thành màu đỏ bầm, loang kín các mép bờ.
Mưa gió sấm chớp rồi cũng ngưng, mặt nước trở lại như cũ và ngay lúc đó có hai bóng trắng từ lòng bàu bay vụt lên trời cao, rồi biến mất nhanh như cái chớp mắt. Và lạ lùng thay, mặt nước khi nãy còn lưng lửng thì giờ đã tràn đầy bàu, chảy xuôi xuống phía đông mang theo xác con trạnh trôi đi một đoạn dài rồi mắc cạn, chắn ngang dòng chảy. Nước từ bàu cứ chảy ào ào, lướt qua xác con trạnh rồi xoáy sâu xuống bên dưới tạo thành cái hố rất sâu và rộng. Đó chính là bàu Trạnh ngày nay, mà theo dân gian cho rằng khi ngoi lên mặt nước quan sát, trạnh không phát hiện có người trần ngồi quanh bầu, để khi đưa hai tiên ông lên đánh cờ thì bị người trần nhìn thấy. Hai tiên ông tức giận, bèn chém đầu trạnh làm nước loang màu đỏ của máu, còn xác thì bị nước xói đẩy mạnh tạo thành bầu trạnh.


--------------------------------------------------------------------------------
SUỐI CHỒNG MÂM PHÚ YÊN:
Suối Chồng Mâm nằm vắt ngang qua QL25 cách thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên 3km đường chim bay về phía Tây. Dân chúng quen gọi là suối Chầm Mâm. Đây là con suối nhỏ chảy ra từ các dãy đồi thấp ở phía Tây và đổ vào sông Ba.
Suối sâu, lòng suối có nhiều đá tảng, đá gốc. Đứng trên QL25 nhìn chéo qua hướng đầu nguồn của suối ta có thể nhìn thấy những tảng đá tròn hay hình chữ nhật xếp chồng lên nhau. Tuy không đều đặn và liền khít như mỏm đá ở gành Đá Dĩa, nhưng có thể hình dung như những chiếc mâm khổng lồ chồng lên nhau một cách bừa bãi.

TRUYỀN THUYẾT:

Về lai lịch của những tảng đá nằm trên suối, người Chăm có một truyền thuyết như sau: Thuở xưa, Trời sinh hạ được người con trai và hết mực thương yêu. Nhưng chẳng bao lâu sau, đứa con trai ngã lăn ra chết đột ngột. Quá thương con, Trời cho chôn cất ngay tại bờ suối gần nhà. Đến ngày bỏ mả, Trời cho đặt những mâm thịt chồng lên nhau. Mâm dưới cùng là thịt gà, chim cu, mâm kế là chồn rắn, mâm tiếp theo là heo rừng, nai…
Để có được những mâm thịt như vậy người nhà trời phải lặn lội vào rừng nhiều tháng liền săn bẫy chim thú và cũng hàng tháng liền nấu nướng chế biến cho đúng ngày để Trời cho mời tất cả các chư thần đến dự lễ bỏ mả của con mình. Sau đó Trời mời mọi người vào ăn uống. Chư thần nào đến trước thì ăn mâm trên cùng, xong đến lượt các chư thần khác ăn mâm tiếp theo cho tới mâm cuối cùng…Các chư thần ăn xong mạnh ai về nơi ở của người ấy, bỏ lại những chiếc mâm trống, không ai dọn dẹp nên những chiếc mâm ấy bị xô lệch, vất bừa bãi, lâu ngày những chiếc mâm đựng thịt hoá thành đá đen. Hiện nay, các mâm đá chồng lên nhau do thời gian và lũ lụt cuốn xô làm đổ, lệch nghiêng hay trôi ra gần đấy.


--------------------------------------------------------------------------------

SÔNG CÀ LÚI PHÚ YÊN:
Cà Lúi là tên con sông chảy ở phía Tây của huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên, giáp ranh với tỉnh Gia Lai. Sông Cà Lúi là phụ lưu của sông Ba, nhập vào sông Ba tại xã Krông Pa.

TRUYỀN THUYẾT:

Về nguồn gốc hình thành con sông, trong vùng còn lưu lại truyền thuyết sau đây. Năm đó toàn vùng bị nắng hạn dữ dội, nước ở các sông hồ đều khô cạn, cây cối khô héo, súc vật và con người không có đủ nước uống. Duy nhất chỉ có con suối nhỏ Bà Lá là còn chút nước từ các lòng mạch chảy ra. Nửa khuya, ông K’Bia Djrao thức dậy gùi những chiếc bầu rỗng lên đường, để các con ở nhà còn đang say giấc (vợ K’Bia Djrao chết sớm). Ông đưa bầu hứng từng giọt nước ít ỏi. Lát sau đoàn người trong buôn cũng ra suối lấy nước. K’Bia Djrao bèn ngước nhìn và hỏi: “Có nghe tiếng con tôi khóc không?”. Mọi người nói: “Chúng khát nước khóc dậy núi rừng”. K’Bia Djrao uất quá leo lên tận đỉnh núi cao, ngửa mặt kêu khóc thảm thiết, cầu xin các thần linh hãy làm mưa để cứu dân làng. Lời than khóc vang thấu tai Trời nên Trời bắt thần mưa lập tức mưa ngay để dân có nước dùng. Mưa xối xả suốt đêm ngày, xẻ núi xẻ rừng tạo thành sông Cà Lúi. Mưa ngập đất đai, nhà cửa, làm trôi các ché túc. Các ché túc theo dòng nước trôi xuôi rồi xoắn lấy gò đất cao, đào khoét tạo thành vực sâu, đó là vực H’Tấk ngày nay.


--------------------------------------------------------------------------------

SÔNG KỲ LỘ PHÚ YÊN:
Sông Kỳ Lộ còn có tên gọi khác là Cà Lố chảy trên địa bàn xã Xuân Quang 2 huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Sông bắt nguồn từ vùng rừng núi ở tỉnh Gia Lai có các phụ lưu như sông Cà Tơn, suối Cối, thác Dài, sông La Hiên hợp thành.
Ở đầu nguồn, lòng sông Kỳ Lộ sâu và hẹp, hai bờ là những vách núi thẳng đứng. Xuôi về hạ lưu hai bờ là bãi cát phẳng phiu, nước quanh năm trong xanh, nhìn thấu đáy. Vì vậy nên có câu ca dao nói về con sông này:
Sông Kỳ Lộ vừa sâu vừa hẹp
Nước Kỳ Lộ vừa mát vừa trong
Thuyền anh bơi ngược dòng sông
Nhìn em cho thỏa tấm lòng nhớ thương.

TRUYỀN THUYẾT:
Dòng sông ngắn này được gắn liền với truyền thuyết về một người làm thuê cho chủ sau dân đưa lên làm vua: vua Chi Lới. Vua Lới chính là Chi Lới ở Phước Tân trong truyền thuyết về hòn Ông. Sau khi thần dân khiêng đầu vua về xứ sở không được bèn đặt đầu vua Chi Lới tại Kỳ Lộ, lấp đất tạo thành ngôi mộ lớn. Nhưng đầu vua không yên, lúc nào cũng lúc lắc, mắt mở trừng trừng sáng quắc, sáng đến độ bao nhiêu đất lấp dày vẫn bị bắn tung ra ngoài, trong khi đó các thần dân cứ ngậm ngùi thương tiếc, cố ra sức lấp kín mộ đầu vua lại khiến đầu vua nổi giận lăn nhào từ Kỳ Lộ xuống tận La Hai và Tuy An. Vệt lăn sượt của chiếc đầu mạnh đến nỗi rạch đất đá tạo thành dòng sông, tức sông Kỳ Lộ ngày nay.


--------------------------------------------------------------------------------

TRUYỀN THUYẾT VỀ NÚI HÒN ÔNG PHÚ YÊN:
Núi Hòn Ông, thuộc địa phận xã Phước Tân, huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên, nằm trong khu vực hạ lưu sông Ba. Ngày xưa, nơi đây, là vùng đất mênh mông, đồi núi, rừng cây rậm rạp chen lẫn những thảm cỏ xanh rờn trên thảo nguyên.
Núi Hòn Ông, gắn liền với truyền thuyết về chàng trai Chi Lới. Chàng là người tài giỏi, sức lực hơn người., có tiếng hú vang xa kinh động núi rừng, chim muông. Chi Lới có sức mạnh phi thường, có thể dùng tay nhổ bật gốc cây kơ nia trăm tuổi, khuân tảng đá to bằng mái nhà ném xuống dòng suối, một mình nắm hai con voi to đứng yên một chỗ. Nhờ Chi Lới, mà thú dữ được cảm hóa không bao giờ đến phá hoại hoa màu, gia súc của buôn làng, các bộ tộc khác không bao giờ dám gây hấn, tranh chiếm đất đai.
Nhưng khốn khổ thay, Chi Lới chỉ là người làm thuê cho một ông chủ giàu có, còn vợ thì làm thuê cho nhà khác. Một bữa kia, có việc đi xa ông chủ sai Chi Lới dắt ngựa ra, tra yên cương và lên đường. Chủ thì cỡi ngựa, Chi Lới đi bộ lo dọn đường, bẻ cành, chặt gai để quang đường chủ đi. Thấy Chi Lới vất vả mà không than vãn, bèn lấy làm cảm động, cởi đôi dép mo đang mang cho Chi Lới đi khỏi đau chân. Một đoạn khác lại thấy trời nắng to, bèn lột mũ đang đội rên đầu để Chi Lơi đội tránh nắng. Đi nhiều ngày ròng rã, chủ nhìn thấy áo quần Chi Lới rách bươm, bèn cởi áo khoác ngoài cho Chi Lới.
Và cuối cùng, dù sức khỏe hơn người, song Chi Lới đi bộ đường xa coi đà đuối sức, nên chủ lại tiếp tục nhường ngựa cho chàng cỡi, tiếp tục đi cho tới khi bóng nắng ngả về Tây thì chủ tớ đều dừng nghỉ dưới gốc sung già, để nấu nướng ăn uống nghỉ ngơi. Chi Lới đưa con gà mang theo từ lưng ngựa xuống đất để chuẩn bị cắt tiết nấu cơm chiều, thì bỗng nhiên những hoa sung trên cao rụng xuống, gà nhìn thấy, bụng đói mổ hoa sung ăn đến căng diều trước khi Chi Lới cắt tiết, trụng nước sôi. Lúc bỏ vào nồi nấu, Chi Lới thấy mắt gà vẫn mở trừng trưng, thỉnh thoảng ngoác miệng gáy te te và chỉ chín phần từ cổ trở xuống.
Chi Lới dọn lên cho chủ ăn, nhưng thấy vậy chủ chỉ ăn phần thân và bắt Chi Lới ăn phần đầu. Ăn uống xong, Chi Lới gom củi khô chất đống và đốt lên rồi sửa soạn chỗ ngủ cho hai người.
Sáng dậy, hai người lại tiếp tục lên đường, chủ vẫn đi bộ còn Chi Lới thì vẫn ngồi trên lưng ngựa. Đến Đồng Dài (thuộc huyện Đồng Xuân bây giờ), dân chúng thấy Chi Lới là chàng trai vạm vỡ, tướng mạo khôi ngô bèn bắt Chi Lới về tôn lên làm vua. Chi Lới nhất quyết không chịu, nhưng do áp lực của người dân bèn ưng thuận, nhưng chỉ một thời gian ngắn. Chi Lới nhớ nhà, nhớ vợ và nhất là cảnh núi non hùng vỹ ở buôn làng cũ Phước Tân, nên đêm khuya, lén dắt chủ bỏ trốn về. Sáng ra, thần dân hay tin, bèn cử người đi rước, nhưng Chi Lới không bằng lòng, bắt Chi Lới đi nhưng chàng không đi. Thần dân bèn xúm vào trói chàng và khiêng đi. Nhưng Chi Lới quá nặng, cả đoàn người đông đúc không làm sao khiêng đi nổi, bèn dùng rựa chặt đầu khiêng đầu đi, nhưng chỉ được một đoạn ngắn, tới Kỳ Lộ là chiếc đầu trì xuống không tài nào khiêng được nữa. Đoàn người thương tiếc, bèn chôn đầu vua Chi Lới ở đầu buôn Kỳ Lộ, còn thân mình vua Chi Lới thì ở Phước Tân, sau một đêm nổi cao thành ngôi mộ cao đến hơn ngàn mét, sau này, dân trong vùng đặt tên là hòn Ông. Bên cạnh hòn Ông, có một hòn đá thật lớn mà người dân tin rằng đó là đầu Chi Lới từ Kỳ Lộ lăn về nằm cạnh thân mình.
Tương truyền, dân trong vùng, người nào muốn làm ăn giàu có thì mang đến hòn Ông một ống đựng tên, một ná cung và một cốc nước van vái rồi dùng sức nhấc nổi tảng đá (dân tin là chiếc đầu Chi Lới) dưới chân hòn Ông, thì được toại nguyện, nhưng xưa nay, chưa ai nhấc nổi hay dịch chuyển nó trong vài phân ly, mặc dầu hòn đá chỉ lớn gấp 20 lần đầu người bình thường. Đến nay, huyền thoại Chi Lới và hòn Ông vẫn được truyền tụng khắp vùng núi Sơn Hòa và Đồng Xuân.


--------------------------------------------------------------------------------
LỄ HỘ PHÚ YÊNI:
Phú Yên có bề dày lịch sử khá lâu đời, với nhiều dân tộc cùng sinh sống, đã sáng tạo nên một nền văn hoá, nghệ thuật dân gian phong phú và sinh động. Bên cạnh những nghệ thuật dân gian đặc sắc như: nghệ thuật tự sự (Kể khan), hát bội, dân ca bài chòi, hò khoan, hát ru, các điệu múa, … các lễ hội truyền thống cũng được hình thành và phát triển thể hiện đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc miền núi và miền biển Phú Yên. Một số lễ hội tiêu biểu thường được tổ chức như:

LỄ HỘI CẦU NGƯ:

Được tổ chức thường xuyên hàng năm tại những địa phương ven biển Phú Yên thuộc các huyện Sông Cầu, Tuy An, Tuy Hoà và thị xã Tuy Hoà– nơi phần lớn dân cư sống bằng nghề đánh bắt hải sản, lễ hội thường được tổ chức vào tháng 3 Âm lịch khi ngư dân chuẩn bị vào vụ đánh bắt cá chính trong năm. Mục đích của lễ hội là cúng tế các vị tiên hiền địa phương và thần Ông Nam Hải, cầu cho sóng lặn biển êm, cá mực đầy thuyền. Lễ hội bao giờ cũng gồm cả phần lễ và phần hội. Phần lễ được thực hiện với nhiều nghi thức trang nghiêm ở nơi điện thờ của làng, xã như: lễ dâng cúng vật phẩm, lễ đọc văn tế, những tiết mục múa thiêng, hò bá trạo, hát khứ lễ… và phần hội là buổi tiệc chiêu đãi khách, hát bội và các trò chơi dân gian. Tính chất của lễ hội cầu ngư là nơi gặp gỡ, chuyện trò, tham dự sinh hoạt văn hoá của đông đảo nhân dân địa phương. Lễ hội thu hút chẳng những nhân dân các vùng lân cận, mà còn cả những người ở xa tới dự.

LỄ HỘI ĐẦM Ô LOAN:

Du khách có dịp vào Nam ra Bắc, đến địa phận huyện Tuy An của tỉnh Phú Yên, dừng lại trên đỉnh đèo Quán Cau hoặc ngược xuôi trên tuyến xe lửa Bắc – Nam, đều có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một di tích thắng cảnh cấp quốc gia … với tên gọi: Đầm Ô Loan. Hàng năm, cứ vào ngày mồng 7 tháng Giêng Âm Lịch, với không khí vui xuân, nhân dân nơi đây và nhiều nơi trong tỉnh đến tham gia lễ hội. Lễ hội có tính chất văn hoá cổ truyền, diễn ra với nhiều hoạt động phong phú sôi nổi như: đua thuyền, quăng chài đánh cá, lắt thúng chai, bơi bộ, múa, hát bội, vật võ … diễn ra trong tiếng ngân vang của các loại nhạc cụ dân tộc: trống, kèn, đờn cò, … Lễ hội còn thể hiện những nét riêng của cư dân vùng sông nước Tuy An với ý niệm như: tín ngưỡng, thờ cúng các vị thần quanh vùng: Thần Biển, Thần Đầm, Thần Sông, … cầu mong cho các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt hải sản đạt kết quả tốt đẹp trong một năm mới. Lễ hội hàng năm chỉ diễn ra trong một ngày nhưng đã thu hút hàng vạn lượt người trong và ngoài tỉnh đến dự.

HỘI ĐUA NGỰA Ở AN XUÂN:

Hàng năm vào ngày mùng Sáu tháng Giêng Âm lịch, khi nắng xuân đang tràn ngập núi rừng xanh thẳm, tại xã An Xuân (huyện Tuy An) lại rộn ràng chuẩn bị cho hội đua ngựa truyền thống. Hội nhằm gợi lại tinh thần thượng võ của một vùng đất, thể hiện ý chí quật cường và sức mạnh phi thường của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. Bãi đua là một thảm cỏ rộng, bằng phẳng và những chàng trai uy nghiêm, chỉnh tề trên lưng ngựa. Sau một hồi tù và vang lên báo hiệu giờ xuất phát, các kỵ sỹ thúc ngựa phóng nhanh về phía trước trông rất dũng mãnh trong tiếng trống thúc dục rộn rã và tiếng reo hò cổ vũ của khán giả vang dội cả núi rừng. Những ngày hội tưng bừng như thế ở An Xuân đã tạo nên một nét văn hoá riêng độc đáo. Mời bạn thử một lần đến An Xuân vào dịp xuân để khám phá vùng đất văn hoá này.

LỄ HỘI ĐÂM TRÂU:

Là lễ truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi Phú Yên. Lễ hội diễn ra trong suốt 3 ngày đêm, thường là vào dịp từ tháng Chạp đến tháng 3 Âm lịch hàng năm. Qui mô tổ chức khá lớn, mang tính cộng đồng cao. Thường là vào ngày thứ ba nghi thức đâm trâu được tiến hành. Trong suốt 3 ngày diễn ra lễ hội, thầy cúng qua nhiều nghi lễ gieo quẻ, xin xăm, khấn vái … Sau mỗi lễ cúng, từ 3 ché rượu cần được rót ra những chén rượu nhất mời các già làng uống trước.
Lễ hội được tổ chức với mục đích là hiến trâu tế thần làng và thể hiện sự cầu mong Thần Nước, Thần Núi cùng đến chứng kiến chủ nhà trả nợ trời. Lễ hội đâm trâu đã có từ thời xa xưa, biểu hiện cụ thể, trực tiếp sinh động về dấu ấn văn hoá tinh thần của đồng bào dân tộc miền núi Phú Yên. Mọi người đến đây để được chiêm ngưỡng những nghi lễ hấp dẫn, được tham gia sinh hoạt văn hoá, được múa hát, đánh chiêng, uống rượu cần và được hoà mình vào thiên nhiên và cuộc sống hoang sơ pha lẫn sắc màu huyền thoại.

LỄ BỎ MẢ:

Là lễ lớn của đồng bào dân tộc miền núi Phú Yên, gồm cả phần lễ và phần hội. Họ có quan niệm con người sau khi chết đi thì linh hồn vẫn còn tồn tại, sau lễ bỏ mả mới về hẳn với thế giới tổ tiên, lúc này được coi như lần cuối cùng tiễn biệt người chết. Cùng với phần nghi lễ là phần hội như: ca hát, nhảy múa, đánh cồng chiêng, kể khan … . Khách mời không những chỉ người thân, bạn bè, bà con trong buôn, mà còn cả bà con các buôn lân cận đến tham dự. Gắn liền với ngày làm lễ bỏ mả là ngày dựng xong nhà mồ, đây là một công trình nghệ thuật đặc trưng của đồng bào dân tộc miền núi Phú Yên.

LỄ HỘI MÙA:
Sau khi thu hoạch lúa xong, thường là vào dịp tháng 3 hàng năm, đồng bào các dân tộc thiểu số Phú Yên tổ chức lễ ăn mừng lúa mới tại từng gia đình vừa để tạ ơn thần lúa, vừa để vui mừng về những thành quả lao động đã đạt được. Trong lễ hội này người ta đánh cồng, chiêng, trống, vui chơi ca hát, uống rượu cần thâu đêm suốt sáng. Tuy không có sự phân công trước, nhưng các gia đình cứ trông nhau mà tổ chức theo thứ tự từng nhà một. Sau khi tan buổi lễ mọi người đều hy vọng về một mùa bội thu sắp đến.


--------------------------------------------------------------------------------

TIẾNG "NẪU" THÂN THƯƠNG PHÚ YÊN:
Không biết đã từ bao giờ tiếng " nẫu " đã trở thành một biểu tượng văn hóa của mảnh đất Phú Yên đầy nắng và gió. 400 năm không phải là dài lắm đối với một chặng đường lịch sử, nhưng nó đủ lâu để cho bao thế hệ gắn bó với mảnh đất này và hình thành nên một nét văn hóa rất bản địa. " nẫu" là một hiện tượng khá đặt biệt trong tiếng Việt, nó vừa là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất vừa là đại từ chỉ ngôi thứ 3 ( mình không phải là dân khoa Văn nên không biết ý kiến này có chính xác không ). Vậy " nẫu" ở đâu mà ra? Mình xin đưa ra một vài ý kiến.
1611, Lương Văn Chánh theo lệnh của chúa Nguyễn Hoàng dẫn 3000 lưu dân vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh đến khai khẩn vùng đất mới thuộc dinh Quảng Nam. Theo mình biết vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh là cái nôi của nền văn hóa Việt Nam ( cư dân Việt cổ xuất phát từ lưu vực sông Cả và sông Mã). Vì thế có thể tiêng " nẫu" xuất phát từ vốn từ cổ trong nhóm ngôn ngữ Việt-Mường chăng?
Sau khi khai khuẩn vùng đất mới, người Việt đã chung sống với người Chăm, liệu "nẫu" có phải sinh ra từ ngôn ngữ của người Chăm không? ( Hiện tại ở Phú Yên có rất nhiều danh từ là của tiếng Chăm như sông Đà rằng có nghĩa là sông lớn, sông cái; như La Hai có nghĩa là vùng đát nhiều thú dữ...).
Năm 1611 là năm Phú yên chính thức có tên trong bản đồ Việt Nam nhưng mình cho rằng trước đó người Việt đã có mặt tại vùng đất này. Trước đó hơn 100 năm vua Lê thánh tông đã thúc quân đánh kinh đô Chà Bàn của nhà Chiêm, cho quân vượt qua đèo Cù Mông và kéo quân đến tận Thạch Bi Sơn ( đèo Cả). Một thực tế nữa là người Chăm hiện nay không có ở Phú Yên ( chỉ có một nhóm nhỏ người Chăm đã tiếp biến với người Ê đê tạo thành nhóm người Chăm-H'roi ở Đồng Xuân). Như vậy có thể đoán rằng khi Lương Văn Chánh đánh vào Phú Yên thì người Chăm đã dần dần di cư vào phương Nam. Tuy nhiên âm điệu và văn hóa của người Phú Yên có một phần hơi hướng yếu tố của người Chăm, như vậy có nghĩa là người Việt đến trước đã có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa với người Chăm và tiếng " nẫu" là sản phẩm của sự giao lưu này không phải là không có cơ sở.
Có một giả thuyết cho rằng " nẫu" là âm đọc trệch của "Nậu". " nậu" là một từ chỉ một nhóm người, nhóm nghề, thợ giống như là từ Phường. ( nậu trâu:những người chăm trâu, nậu cá:những người bán cá, đánh cá....). Nậu là một đơn vị chính thức trong chính quyền thời đó và chỉ có duy nhất ở Bình Định và Phú Yên, tuy nhiên sau đó thì người ta bỏ đi. Ngày nay từ "nậu" vẫn được dùng rất nhiều.
Mảnh đất Phú Yên không phải trù phú lắm nhưng cũng đủ sức hấp dẫn cho bao người phiêu bạt chọn làm quê hương. Con người Phú Yên hiền hòa chân chất với những cái tên địa danh cũng đủ để nói lên tất cả: PHÚ, HÒA, BÌNH, YÊN, AN, PHƯỚC, LẠC... ( tên TUY HÒA có nghĩa là vùng biên giới bình yên; Tuy có nghĩa là biên giới và lúc đó Tuy Hòa là biên giới với nước Chăm Pa). Đứa con xa quê thèm nghe một tiếng " nẫu" thân thương, mạo mụi viết vài dòng.
Thương chi cho uổng công tình
Nẫu dìa xứ nẫu bỏ mình bơ vơ...


--------------------------------------------------------------------------------

ĐỀN THỜ LÊ THÀNH PHƯƠNG PHÚ YÊN:
Cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ và Trần Cao Vân
Sau khi cuộc khởi nghĩa do Lê Thành Phương khởi xướng và lãnh đạo bị thất bại, phong trào chống Pháp của nhân dân Phú Yên bùng lên vào năm 1892 với cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ và Trần Cao Vân.
Võ Trứ (không rõ năm sinh) quê ở làng Nhơn Ân, tổng Kỳ Sơn, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, sau di cư vào La Hai, thuộc huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, trong một gia đình nông dân, nhưng có học chữ Hán và giàu lòng yêu nước. Lúc bấy giờ Pháp đã đặt xong nền thống trị trên đất nước ta, nhưng ông vẫn nuôi hy vọng đánh đuổi quân Pháp, giải phóng đất nước.
Trước hết, Võ Trứ gia nhập làm môn đệ thầy chùa Đá Bạc (ở làng Chánh Danh, thuộc Bình Định), tại đây, có một vị lão tăng tu theo Phật. Lúc này dân chúng bị bệnh dịch, đến xin thuốc và bùa phép chữa trị nên nhà sư phát cho mỗi người đến xin một tấm giấy có ấn “Ngũ công quan âm”, đem về đốt ra tro hòa với nước lã uống. Có một số người đã khỏi bệnh, Võ Trứ được thừa hưởng ấn phép đó sau khi lão sư tăng tịch, Võ Trứ gặp Trần Cao Vân trong khoảng thời gian này.
Sau đó, ông về lại Đồng Xuân là nơi có nhiều người quen, ông áp dụng ngay phương thuật sở trường là cho thuốc, phát bùa, nhương sao, giải hạn cho đến tống quái, trừ tà để mua chuộc lòng dân lúc bấy giờ còn quá tin vào những phương thuật ấy, nhất là với đồng bào ở miền núi. Nhờ những hoạt động đó, ông len lỏi khắp buôn làng, tuyên truyền, kích động tinh thần ái quốc chống Pháp. Ông còn liên lạc với các nhà sư ở khắp các phủ, huyện, xã thôn và những người đồng chí đã kết giao với ông từ lâu hoặc mới gia nhập để bàn kế hoạch hành động.
Rằm tháng 7 năm 1897, nhằm vào ngày lễ Trung nguyên, bổn đạo thập phương đi lại các chùa đông đảo. Để che mắt nhà cầm quyền đương cục, Võ Trứ và Trần Cao Vân lợi dụng ngay cơ hội này triệu tập một cuộc hội nghị bí mật tại chùa Đá Trắng[3] bàn kế hoạch khởi nghĩa.
Năm 1898, dân chúng Phú Yên bị thiên tai mất mùa, cơm không đủ ăn, lại phải đóng các loại sưu cao, thuế nặng cho chính phủ Bảo hộ. Bọn cường hào dựa vào bọn quan thầy Pháp gây bao tội ác trong thôn xóm, lòng dân căm thù sục sôi, Võ Trứ quyết định khởi binh.
Vào một đêm năm 1898, dưới lá cờ đề bốn chữ “Minh Trai chủ tể”, Võ Trứ ngồi trên lưng ngựa chỉ huy một đạo quân từ khu rừng thuộc huyện Đồng Xuân kéo xuống tỉnh lỵ Phú Yên ở Sông Cầu, với vũ khí là giáo, mác, rựa và bùa hộ mệnh.
Kế hoạch của Võ Trứ trước hết là vây trại lính tập, đoạt lấy súng đạn, chuyển chủ lực của họ về cho dân binh, tiếp đến là chiếm các dinh sở của chính phủ Bảo hộ và Nam triều.
Dọc đường dân chúng gia nhập mỗi lúc một đông.[4]
Khoảng 11 giờ đêm, khi gần tới dốc Quít (cách Sông Cầu chừng 4 km), Võ Trứ đang thúc dục ngựa tiến tới, bỗng từ phía trước có tiếng súng. Võ Trứ biết có quân Bảo hộ chặn đường, liền hạ lệnh bắn, tức thì, hàng trăm cánh cung đồng thời bắn ra một lượt, tên bay như mưa, hàng ngàn dân binh reo hò vang dậy… Trong lúc đang hăng hái thì khoảng 4-5 người trúng đạn chết, một số khác bị thương, hoảng sợ kêu rú lên, cả đoàn người quay đầu tháo chạy, làm cho đám dân binh ô hợp bắt đầu rối loạn, xô nhau mạnh ai nấy chạy. Võ Trứ cùng các vị sư tăng không còn đốc suất được nữa đành phải đưa quân rút lui vào rừng.
Trước đó vài tháng, sự chuẩn bị của Võ Trứ đã lọt vào mắt của bọn mật thám, nên viên Công sứ và Bố chánh Phú Yên đã báo các phủ, huyện biết để đề phòng. Rồi đến hôm Võ Trứ dẫn quân về Sông Cầu, viên Tri huyện Đồng Xuân là Lưu Tấn đi báo, do đó bọn Pháp mới đem một toán lính tập vào dốc Quít chặn đánh.
Mấy ngày sau, thực dân Pháp tập trung quân đi đốt nhà, bắn giết một cách dã man đồng bào các xã gần khu căn cứ. Trước cảnh dân tình bị chết và mất mát nhà cửa, Võ Trứ quyết định tự nộp mình cho giặc. Quân xâm lược yêu cầu ông nhân danh cả phong trào đầu hàng và hợp tác với chúng, Ông không chịu, chúng đã chém và treo đầu Ông ở cầu Tam Giang. Chính Pháp cũng kiêng nể gọi Ông là “Vua người Thượng”. Cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ, người Pháp gọi là “giặc rựa” hay “giặc thầy chùa”.
Tuy chỉ tồn tại một thời gian ngắn, nhưng ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa trong các tầng lớp nhân dân thật lớn lao. Tờ trình của Công sứ Phú Yên Blainville gửi Khâm sứ Trung Kỳ viết: “Quân của Võ Trứ có khoảng 600 người có cả Công giáo[5], Phật giáo, mà nhiều nhất là Phật giáo. Hai tướng của Võ Trứ là Nguyễn Khỏe tức là Đội Khỏe, tín đồ Phật giáo và Huỳnh Cụ tức là cai Nam , tín đồ Công giáo. Võ Trứ đi đến đâu cũng được dân chúng và các nhà chức trách địa phương đón rước và hiến dâng lễ vật như một giáo chủ đạo Hồi hay một vị thượng quan đi kinh lý. Còn những người mà y biết làm do thám cho tôi (cho Pháp) đều bị giết như chánh tổng Tiền và chàng rể ở Cà Lúi. Khi bắt được Võ Trứ và Nguyễn Khỏe, trước mặt tôi họ vẫn nói: “Tôi muốn đánh đuổi người Pháp để giành độc lập cho Tổ quốc và lật đổ triều đại đương quyền đã phản bội quyền lợi dân chúng. Nhưng tiếc rằng công việc không thành, các ông cứ đem tôi mà chém, đừng nói nhiều lời”.
Nguyễn Khỏe còn nói: “Trước đây ta là tướng cho Bá Sự (Nguyễn Hào Sự) nay ta làm tướng cho Võ Trứ không may bị bắt, ta biết đầu ta sắp rụng, nhưng không có chút bận tâm, chết cho tự do hơn là sống để làm tôi tớ cho các người”.
Báo cáo mật của Công sứ Phú Yên gửi Khâm sứ Trung Kỳ cũng thừa nhận khí phách của phong trào Võ Trứ như sau:
“Dân Phú Yên tuy ít học, nhưng họ giữ được ý thức độc lập, tự do. Từ hai năm nay ta xen vào công việc của họ một cách trực tiếp, họ nhìn ta với con mắt căm thù. Hơn nữa, họ còn ghi lại trong ký ức những cuộc chiến đấu của cha ông họ chống lại người Pháp khi chúng ta đặt chân tới mảnh đất này. Nay có người gợi lại truyền thống ấy và khuyên dụ họ, tức thì họ nghe theo. Chỉ vì vậy mà Võ Trứ cùng Nguyễn Khỏe tướng của Võ Trứ quê ở Tuy An đã thành công trong việc khuếch động dân chúng nổi dậy chống người Pháp đông đảo và nhanh chóng như vậy. Có ôn lại chuyện cũ mới hiểu rõ chuyện ngày nay. Ta còn nhớ từ ngày lập Tòa sứ tại Sông Cầu, chúng ta đã nhiều lần đối phó với sự chống đối khá mạnh, khi ngấm ngầm, lúc công khai của dân chúng ở đây.
Và những làng theo Võ Trứ đều phải nộp “phí tổn chiến tranh” là 20.000 sợi dây thừng và một số vật dụng khác.
Phong trào chống xâu thuế ở Phú Yên năm 1908
Ở Trung Kỳ cuộc vận động “xin xâu” còn gọi phong trào Duy Tân, bắt đầu từ Quảng Nam (tháng 3-1908) rồi lan dần đến các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên ở phía nam và Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Quảng Bình ở phía bắc.
Ởù Phú Yên, dưới sự lãnh đạo của các ông Nguyễn Hữu Dục và Lê Hanh phong trào chống sưu cao thuế nặng, chống cường hào, chống đồi phong bại tục, cổ động dùng hàng nội hóa, mở trường dạy học chữ quốc ngữ bùng lên mạnh mẽ. Những đoàn người ăn mặc rách rưới, mang theo chiếu rách, cơm khô, bắp rang lũ lượt kéo đến phủ huyện, đòi giảm thuế, giảm sưu.
Họ đến đâu cũng hô hào đàn ông cắt tóc, hưởng ứng và tham gia đi xin sưu. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, kéo nhau xuống phủ Tuy Hòa, đóng tại thôn Đông Phước (xã Hòa An, huyện Phú Hòa nay). Tối hôm đó, chánh tổng Hớn đi báo với Tri phủ Tuy Hòa rồi ra Tòa sứ Sông Cầu nói rằng: “dân chúng Tuy Hòa đang nổi loạn”. Vì vậy, khi dân chúng kéo đến phủ Tuy Hòa, viên Tri huyện đã trốn mất, cửa phủ đóng chặt.
Đoàn biểu tình dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Hữu Dục từ Tuy Hòa kéo ra phối hợp với đoàn biểu tình ở Tuy An do Huỳnh Tấn Phòng, Nguyễn Trọng Thuật chỉ huy. Số người lên tới khoảng 2000, kéo ra Sông Cầu, nhưng khi ra tới trạm Gành (tức Phú Tân, thuộc xã An Cư nay) thì gặp tên Quan Hai và 10 tên lính tập từ Sông Cầu vừa tới. Bọn Pháp thấy đoàn biểu tình quá đông, bắn súng chỉ thiên, Ông Nguyễn Hữu Dục chạy lại vừa ôm tên quan Pháp vừa la “Chúng tôi chỉ đi xin sưu, chớ có làm giặc, làm ngụy gì mà bắn”. Tên quan Hai tưởng ông cướp súng liền thúc mạnh báng súng ra sau, chẳng may trúng ngực khiến Ông chết ngay tại chỗ. Liền đó, bọn lính tập được lệnh bắn vào đoàn biểu tình, làm cho nhiều người chết và bị thương, đám đông chạy tán loạn, bọn Pháp rút về Sông Cầu.
Đoàn biểu tình tiếp tục lên đường, rước cả xác ông Nguyễn Hữu Dục cũng như các tử thi khác đi theo, với khí thế uất hận và sôi sục. Song khi tới cầu Tam Giang, bọn thực dân Pháp lại cho lính cản ngăn và đàn áp thẳng tay, cuộc biểu tình tan rã.
Phong trào Săm Brăm
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khắp vùng núi rừng Trường Sơn đã dấy lên phong trào chống thực dân Pháp với quy mô lớn, bao gồm nhiều tộc người và nhiều tỉnh tham gia mà Phú Yên là trung tâm. Trong nhiều tài liệu gọi là phong trào Săm Brăm, cũng có tài liệu gọi là phong trào “Xu đỏ”, hoặc phong trào “lấy nước phép đánh Tây”.
Săm Brăm vốn là người có uy tín, lại hiểu nhiều về phong tục tập quán, nên được dân làng suy tôn làm người đứng đầu làng, sau đó là cả vùng. Tinh thần yêu nước chống Pháp của ông cũng được mọi người kính nể.
Sau những năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, phong trào yêu nước lại nổ ra mạnh mẽ và dồn dập khắp nơi. Thực dân Pháp một mặt tăng cường khủng bố, mặt khác chúng ra sức bóc lột và vơ vét của cải tài nguyên. Ở miền núi Phú Yên, chúng bắt đầu làm đường số 7 (nay là quốc lộ 25) từ Tuy Hòa đi Cheo Reo, mở đồn điền tại Vân Hòa, bắt nhân dân phải nộp sưu, đi phu, làm xâu liên miên. Cạnh đó, Pháp còn lập thêm nhiều đồn bốt, trại giam và nhà tù để giam cầm các sĩ phu yêu nước. Tại nhà giam Trà Kê gần quê hương Săm Brăm, địch bắt giam nhiều nhà cách mạng và cũng tại đó đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh. Săm Brăm được phong trào cổ vũ và thôi thúc, được các chiến sĩ tại nhà giam Trà Kê động viên nên ông hăng hái hoạt động, đứng ra khởi xướng phong trào đấu tranh chống Pháp trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Ngôi nhà sàn 9 gian, dài đến 25m rộng 8m của Săm Brăm trở thành nơi tụ họp dân làng và đại biểu các dân tộc gần xa. Trai làng náo nức luyện tập bắn nỏ, ném lao, làng gần làm trước rồi đến làng xa làm theo. Bà con Êđê, Chăm, Bana ở Sơn Hòa, Sông Hinh, Đồng Xuân đều hướng về Săm Brăm. Rồi người Chăm và Bana ở Vân Canh, An Lão (Bình Định), người Cadong, H’rê (Quảng Ngãi) người Xê đăng (Quảng Nam) lần lượt đến với phong trào. Ở Đắc Lắc các cụ già ở xã Ea H’Leo, huyện Ea H’leo nay còn kể lại:
“Khi ấy có một tin len lỏi đến tận mỗi buôn làng của người Ê đê, M’nông, Gia Rai, Xê đăng rằng: vào một ngày nhất định mỗi buôn làng trong toàn vùng phải cử từ 3 đến 7 người đi đến vùng xã Ea Tơ linh, huyện Krông Bách, Đắk Lắk, tức là tới buôn Ama Y (nay thuộc xã Phước Tân) để lấy nước thần, Ông Săm Brăm, người thuộc dân tộc Chăm ban phát. Các buôn làng trên cao nguyên sôi nổi chuẩn bị, mọi người từ già đến trẻ đều đóng góp một đồng xu đỏ có in hình vua Lu-i, mà người Gia Rai khi ấy gọi là Lui nộp cho trưởng làng.
Từng buôn cử một tốp trai gái chưa lập gia đình đến giã gạo để trưởng buôn mang đi nộp cho Săm Brăm. Con gái giã gạo, con trai nhặt chọn những hạt không vỡ, không sứt mẻ cho vào một cái chai “đặc biệt” đậy kín nắp, gọi là chai gạo đóng góp. Buôn Ea Teng cử 3 người là Nay Y Bu, Sin Y Huy và R’băm Y Sin mang tiền xu, chai gạo và một số lễ vật gồm có gà và rượu ché. Trên đường đi lấy nước thần mọi người tuyệt đối không được bắt và ăn thịt thú rừng.
Nhà Săm Brăm chật kín người từ các nơi đổ về. Gạo đóng góp của mỗi buôn được đổ vào bồ, tiền xu cũng được đổ vào gùi. Chỉ mấy ngày gạo và tiền đã đầy có ngọn. Săm Brăm chỉ nhận gạo và tiền, còn gà và rượu được làm lễ cúng. Cúng xong, ông lấy chai đựng gạo xuống dòng sông Cà Lúi rửa râu và tóc của mình, rồi đổ nước đầy chai, trao cho những người đi “lấy nước thần” mang về. Dân làng tin rằng có nước phép đó thì đạn bắn không chết và sẽ tránh được bệnh tật ốm đau”.[6]
Thực dân Pháp thấy sự lớn mạnh của phong trào, tìm mọi cách đối phó và đàn áp, khủng bố.
Cuối năm 1936, tên đồn trưởng Tân An đã đích thân dẫn lính đến bắt Săm Brăm. Chúng đưa ông về giam ở đồn Trà Kê, rồi đày lên Buôn Ma Thuột. Một thời gian sau, chúng đưa ông ra giam tại Sông Cầu và cuối cùng đưa ra tận nhà lao Thanh Hóa.
Sau đó, thực dân Pháp đã cho lính đến nhà lấy hết tài sản, bắt bớ và khủng bố người thân gia đình. Ngôi nhà cũng bị chúng phá dỡ và đưa về đồn Trà Kê, những đồng xu cũng bị cướp sạch. Thực dân Pháp tìm cách xóa bỏ hết dấu tích của phong trào Săm Brăm trên quê hương ông.
Cũng người dân làng Ea Teng kể: “Sau đợt lấy nước thần rầm rộ ấy, một thời gian ngắn thực dân Pháp bắt ông Săm Brăm và đày đi biệt tích. Mọi người mới hiểu rằng dưới một hình thức có vẻ thần bí, ông Săm Brăm có ý đồ tập hợp các dân tộc Tây Nguyên đứng lên chống Pháp. Thực dân Pháp còn đàn áp nhiều người sau chuyến đi lấy nước thần, làng Ea Teng mỗi người phải đi phu 10 ngày, xâu thuế cũng tăng lên”.
Toàn tỉnh lúc này chia làm hai phân khu. Phân khu Bắc từ đèo Cù Mông đến đèo Tam Giang; Phân khu Nam từ đèo Tam Giang đến đèo Cả.



--------------------------------------------------------------------------------
KHU DU LỊCH ĐẠI LÃNH PHÚ YÊN:
Đại Lãnh nằm kề ranh giới hai tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa, có đèo Cả sừng sững phía Bắc, đèo Cổ Mã án ngữ phía Nam, dãy núi cao che chắn phía Tây, đảo Hòn Nưa như một pháo đài canh gác cho tàu bè ra vào phía Đông Bắc.
Đây là một vùng thiên nhiên kỳ thú với núi non, biển cả tuyệt đẹp làm sững sờ biết bao du khách. Đại Lãnh có bãi biển rộng và dài với nước biển xanh biếc, lấp loáng ánh mặt trời, thuyền bè hàng trăm chiếc đậu san sát, sắc màu rực rỡ đẹp như tranh vẽ.
Bãi tắm Đại Lãnh thuần khiết bởi một thứ cát trắng mịn, nước trong vắt, độ thoải lớn có thể lội xa bờ mà vẫn yên tâm. Độc đáo hơn là có ngay một nguồn nước ngọt từ chân núi chảy ra, hòa vào biển cả quanh năm mà không cạn. Kề bãi biển là rừng phi lao xanh tươi gió thổi vi vu hòa cùng tiếng sóng biển ầm ào thành bản nhạc không lời du dương, trầm bổng.
Từ Đại Lãnh du khách có thể đi thuyền máy thăm những làng chài ở Khải Lương, Đầm Môn thuộc vịnh Vân Phong ở phía Nam, thăm các hòn đảo đẹp, kỳ thú ở phía Đông hay cảng Vũng Rô ở phía Bắc - nơi từng là điểm tập kết của những chuyến tàu không số với di tích lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc chiến giải phóng miền Nam.
Phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng của Đại Lãnh từ xưa được liệt vào hàng những danh thắng của VN. Từ năm 1836 vua Minh Mạng đã cho thợ chạm hình phong cảnh Đại Lãnh vào một trong chín đỉnh đồng lớn trang trí trước sân Thế Miếu của đất đế đô. Mười bảy năm sau (1853) dưới triều Tự Đức, Đại Lãnh có tên trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn. Điều đó cũng hiếm thấy đối với một vùng thiên nhiên xa cách hẳn với các nơi đô hội và hầu như chưa có mấy sự tạo dựng của bàn tay con người.
Đẹp và lãng mạn nhất khi đến Đại Lãnh có lẽ là lúc đón bình minh trên bãi biển. Mặt trời lên đúng vào khoảng trống giữa hai hòn đảo phía Đông. Ánh bình minh chiếu dọi xuống mặt biển như dát vàng thật ấn tượng. Trên biển tàu thuyền tấp nập ra vào, sống động, nhôn nhịp và mời gọi.
Đường đến Đại Lãnh rất thuận tiện bởi các loại hình giao thông: đường biển, đường bộ, đường sắt (Quốc lộ 1A và ga Đại Lãnh liền kề). Nơi đây có nhiều hải sản tươi ngon như mực, cá, tôm, cua, ghẹ, ốc... giá cả phải chăng, thái độ phục vụ thân tình.
Khu du lịch Đại Lãnh với những nhà nghỉ, nhà hàng thủy tạ nép mình dưới những tán phi lao tươi xanh rất thơ mộng, chiếc cầu gỗ duyên dáng nối với khu du lịch, những chiếc lều bằng tranh xếp thành hàng dài cho du khách nghỉ ngơi khi hóng mát, tắm biển. Nơi đây thích hợp với các loại hình du lịch: tắm biển, câu cá, leo núi, khám phá bí mật của các đảo, dã ngoại, thể thao, nghỉ dưỡng...
Đại Lãnh là nguồn thơ, là danh thắng được nhiều du khách biết đến bởi vẻ đẹp tự nhiên "sơn thủy hữu tình” với núi, với đèo, với trời, với biển, với cát trắng, cây xanh, với đảo gần, đảo xa. Đại Lãnh thực sự là khu du lịch hấp dẫn đang dang tay mời gọi.
Sông Cầu
"Ai ra xứ Huế
Nhớ ghé sông Cầu
Mua cau mua trầu
Mua bánh su sê
Bánh su sê làm bằng khoai hạ
Dừa Sông Cầu, củi lửa Sông Mao."

Những câu thơ của nhà thơ Kiên Giang như mời gọi các bạn, dù bôn ba xuôi ngược Bắc-Nam, cũng nên bỏ chút thời giờ dừng chân ghé lại Sông Cầu - Phú Yên, xứ dừa nhỏ bé đầy thơ mộng, nằm ẩn mình dưới rừng dừa bạt ngàn, mặt trông ra Vịnh Xuân Ðài mênh mông sóng nước.
Ðến thăm Sông Cầu trong cái nắng oi bức, chắc chắn thế nào các bạn cũng được các cô gái đứng bên cạnh những đống dừa tươi cao nghệu xếp bên vệ đường đon đả mời gọi với cái giọng trong trẻo, ngọt ngào. Nước dừa ở đây ngọt đậm khiến bạn dẫu có mệt mỏi, cũng tươi tỉnh lại ngay. Nhưng trái dừa mà bạn uống đây là được trồng bên kia bán đảo Xuân Thịnh, chung quanh nước biển mặn chát, thế mà dừa lại ngọt nước một cách lạ lùng.
Dừa ở đây phong phú cho nên người ta đã dùng quả dừa để chế biến ra biết bao nhiêu món ăn thơm ngon, no bụng mà lại rẻ tiền. Nào là bánh su sê, bánh tráng nước dừa, xôi dừa, mứt dừa, cháo nước dừa, bánh ít nhân dừa, chè nước dừa, gà hầm nước dừa...
Buổi sáng, để cho nhẹ dạ, chỉ cần lót lòng một tô cháo nước dừa cũng đủ khoẻ trong mình rồi, các bạn ạ. Cháo nấu bằng gạo trắng thơm với nước dừa tươi, lại thêm một chút nước cốt dừa khô và dừa tươi nạo nhỏ, tạo thành một mùi vị rất "đặc biệt".
Nếu các bạn muốn thưởng thức các đặc sản biển ở đây, tôi tin rằng, tuy không phải là ở cao lâu, tửu quán, không có những món ăn Tàu, món ăn Tây, nhưng những hải sản vừa đánh bắt được từ Vịnh Xuân Ðài sẽ là những món ăn hợp khẩu vị các bạn. Ðây là những con tôm hùm, tôm sú, ghẹ, cua, sò, cá mú... bạn muốn luộc hay nướng tuỳ ý. Ngon nhất phải kể đến cá kình giò, một loại cá vừa ăn ngon, vừa bổ, ăn nhiều mát khoẻ, ngủ thoải mái. Sò huyết ở đây tuy nhỏ con hơn sò huyết Thuỷ Triều, Ô Loan nhưng ruột nó béo vô cùng. Sò đem muối chua, trộn với riềng sẽ có món mắm sò ngon tuyệt. Nếu đem trộn với bắp chuối, rau thơm và đậu phộng rang để làm món gỏi sẽ được một món nhậu ngon hết ý. Còn ngao bọp ở đây, nếu đem xào, nướng làm món nhắm hay đem làm mắm ngao cũng mặn mà chẳng kém.
Nếu còn thì giờ rảnh rỗi, mời các bạn rời thị trấn để đi thăm chùa Xuân Long, nằm trên sườn núi, bên trong có tượng Phật 18 tay. Từ sân chùa, có thể trông xuống dòng sông Tam Giang (sông Cầu) giống như một dải lụa bạch, còn đập Ðá Vãi trông như hàng triệu viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. Hoặc các bạn đi về hướng bắc để đến Tuý Phong, một miền thuỳ dương cát trắng có vách đá dựng kỳ lạ và bãi tắm hết sức lý tưởng. Bạn hãy tắmcho mát rồi lên bãi phơi nắng, nằm nghe phi lao thì thầm với gió. Hoặc các bạn đi về hướng nam để đến Gành Ðỏ, ở đó có hang "Lạnh Lùng" và giếng Nước Mặn sâu tưởng chừng không có đáy. Tại Gành Ðỏ có loại cua bốn màu xanh, vàng, đen, đỏ... lốm đốm trên mai trông thật lạ lùng và đẹp mắt...


--------------------------------------------------------------------------------

SUỐI NƯỚC KHOÁNG PHÚ SEN PHÚ YÊN:
Nằm trong địa phận xã Hòa Định Tây, huyện Phú Hòa, cách thị xã Tuy Hòa 25 km về phía Tây theo đường Quốc lộ 25. Nguồn nước khoáng nóng ở đây nhiệt độ trên 700C, có hàm lượng các loại khoáng chất rất bổ ích cho cơ thể, được đánh giá thuộc loại nước khoáng chất lượng cao và đang được khai thác để sản xuất các loại nước giải khát với các thương hiệu như: Pi ta, Phú Sen … đã quen thuộc với người tiêu dùng ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Nơi đây còn có lớp bùn khoáng rất tốt.
Hiện nay, Công ty Sản xuất Kinh doanh Tổng hợp 3/2 tỉnh Phú Yên liên kết với Bệnh viện Điều dưỡng Phục hồi Chức năng Phú Yên đang triển khai dự án Khu du lịch kết hợp chữa bệnh nước khoáng Phú Sen. Sau khi hoàn thành các hạng mục công trình và đưa vào sử dụng, đây sẽ là điểm nghỉ dưỡng, tắm chữa bệnh, phục hồi sức khoẻ và vui chơi giải trí lý tưởng cho khách du lịch.
Phú Yên đã có một nền văn hóa truyền thống đầy bản sắc được kế thừa và không ngừng phát triển làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của các dân tộc anh em trong Tỉnh. Nếu trong những năm kháng chiến chống Pháp - chống Mỹ, nhân dân cả nước biết đến Phú Yên bởi truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm thì ngày nay nhân dân cả nước biết nhiều đến Phú Yên bởi nơi đây còn là một địa chỉ văn hóa giàu bản sắc. Chính vùng đất này, cách nay gần 3 thiên niên kỷ các bậc tiền nhân đã sáng tạo ra những nhạc cụ âm nhạc tương đối hoàn chỉnh về thanh âm và điệu thức, đó là bộ đàn đá và cặp kèn đá Tuy An đã được Hội đồng khoa học Quốc gia công bố năm 1993 và 1996, đây là 2 nhạc cụ âm nhạc có niên đại gần 1000 năm trước Công Nguyên. Nhiều trống đồng cổ được phát hiện ở Phú Yên trong những năm gần đây. Theo đánh giá của Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam, thì đây là trống đồng đẹp, có niên đại thuộc loại trống đồng sớm trong nhóm C, có tuổi từ 1 đến 2 thế kỷ trước Công Nguyên. Tương đương với niên đại tồn tại của nền văn hóa Sa Huỳnh ở Trung Bộ.
Trong hai năm nay, ngành bảo tàng của Tỉnh đã phát hiện gần một tấn tiền cổ, trong đó có cả tiền cổ Việt Nam và Trung Quốc có niên đại từ Thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XVII.
Nhiều di tích Lịch sử - Cách mạng - Văn hóa và danh lam thắng cảnh ở Phú Yên, như: nơi thành lập Chi Bộ Ðảng đầu tiên ở Phú Yên; Vụ thảm sát Ngân Sơn Chí Thạnh; Chiến thắng Ðường Năm, Tàu không số Vũng Rô; Mộ và đền thờ Lê Thành Phương, Lương Văn Chánh; Tháp Nhạn; Ðầm Ô Loan; Gành Ðá Ðĩa, Chùa Ðá Trắng đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng là các di tích lịch sử - Cách mạng - Văn hóa và danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia.
Chính vùng đất này đã sản sinh ra các nhạc sĩ Nhật Lai, Trương Tuyết Mai, Kpă Y Lăng, nhà thơ Nguyễn Mỹ; nhà văn Võ Hồng, nhà thơ Văn Công; họa sĩ Văn Dương Thành, Lê Thị Hiệp; nghệ sĩ Măng Thị Hội; các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Ka Sô Liễng, Bùi Tân, Trần Sỹ Huệ, Nguyễn Ðình Chúc, Ngô Sao Kim, ...; các nhà văn Y Ðiêng, Liên Nam, Tô Phương, Huỳnh Quang Nam, Ðào Minh Hiệp, Triệu Lam Châu, Huỳnh Thạch Thảo và hàng chục nghệ sĩ trẻ khác đang tiếp bước trên con đường sáng tạo nghệ thuật mà các thế hệ đi trước đã khai phá. Hơn 80 vạn dân với các dận tộc anh em (Kinh, Hoa, Ê Ðê, Ba Na, Chăm, Tày, Nùng,... ) đã tạo nên một nền văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng. Hàng chục trường ca các dân tộc thiểu số đã được các thế hệ đi trước sáng tạo và hiện đang lưu truyền trong dân gian. Trong đó gần 10 trường ca đã được các nhà nghiên cứu ghi lại và in thành sách, như: trường ca "Chi Lơ Kok", "Xing Chi Ôn", "Hbia Ta Lui-Ka Li Pu", "Anh em Chi Blong", "Giàng Hlăh xấu bụng", "Tiếng còi ông bà HBia Lơ Ðă", "Chi Liêu", và "trường ca Chi Mơ Nâm". Hàng chục các nhạc cụ cổ truyền được nghiên cứu sử dụng cùng hàng trăm các làn điệu dân ca, hát ru và hàng ngàn câu chuyện kể dân gian phong phú hấp dẫn được sưu tầm, tuyển chọn in thành sách.
Nhiều lễ, hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc đã được khơi dậy và phát huy, góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong đó có nhiều lễ hội truyền thống đã được ngành VHTT và Viện VHDG Việt Nam tổ chức sưu tầm, nghiên cứu và đưa vào lưu trữ ở Viện lưu trữ Quốc Gia như: "Lễ hội đánh bài chòi", "Lễ đâm trâu" dân tộc Ba Na, Lễ "bỏ mả" dân tộc Ê Ðê, "Lễ mừng nhà mới" của dân tộc Ê Ðê, lễ "cúng đất" người kinh, "Lễ hội cầu ngư", "Hò khoan" của người kinh. Nhiều hoạt động văn hóa đã trở thành truyền thống không thể thiếu như: lễ hội Lương Văn Chánh, lễ hội Lê Thành Phương, hội thơ Nguyên Tiêu, hội đua thuyền đầm Ô Loan, hội đua thuyền Sông Chùa, hội hoa xuân, nhạc hội xuân v.v..



Some recent events