Showing posts with label Lịch Sử Phật Giáo - Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam. Show all posts
Showing posts with label Lịch Sử Phật Giáo - Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam. Show all posts

Sunday, March 6, 2011

NGỘ VÀ HÀNH TRÌNH TRẢI NGHIỆM ĐỜI SỐNG CỦA THIỀN NHÂN ĐỜI TRẦN



Viết bởi Nguyễn Kim Châu

1. Trong Thiền Tông chỉ nam tự,[1] Trần Thái Tông có nhắc lại câu chuyện ông từng đang đêm trốn khỏi hoàng cung, vượt suối trèo đèo lên Yên Tử. Vị vua nổi tiếng này, lòng nặng trĩu ưu tư vì ở ngôi cao khi còn rất trẻ, lại mất đi những người thân yêu nhất và bị chi phối ghê gớm bởi Trần Thủ Độ, một chính khách đầy quyền uy, đã đến gặp nhà sư trụ trì thỉnh cầu thành phật. Sư trả lời: “Trong núi vốn không có Phật. Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu đó chính là chân Phật, không cần khổ công tìm kiếm bên ngoài”.

Nội dung bài tựa nổi tiếng này còn cho biết rằng sau đó Thái Tông trở về triều tiếp tục làm vua và cần mẫn tham cứu đạo thiền hơn 10 năm cho đến khi bất ngờ đọc đến câu “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” trong kinh Kim Cương thì “khoát nhiên tự ngộ”. Cách nói này rất phổ biến trong các thiền thoại, cho biết rằng khoảnh khắc ngộ thường chợt đến do một cú sốc tâm lý đột ngột, một lực tác động ngẫu nhiên hay một biến cố bất ngờ. Thật thú vị khi đọc thấy trong Cảnh Đức truyền đăng lục vài chi tiết về cuộc đời Lục tổ Huệ Năng có phần trùng hợp với lời tự thuật của Trần Thái Tông. Sách ghi nhận rằng thời trẻ, Huệ Năng phải làm việc cực nhọc, “đốn củi đem bán nuôi mẹ, ngày nọ nhân gánh củi qua chợ, chợt nghe có người khách đọc kinh Kim Cương đến câu Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm đâm ra cảm ngộ”[2]. E rằng câu chuyện nêu trên có phần huyễn hoặc, một cách thần thiêng hóa khoảnh khắc tự ngộ như là kết quả của sự mặc khải huyền diệu thường thấy trong điển thoại của các học thuyết tôn giáo tin tưởng vào một quyền năng siêu nhiên có thể bất ngờ dùng phép lạ khai sáng tâm trí, cứu vớt linh hồn con người. Hoặc giả đó là biến thể cực đoan hóa do người sáng tạo câu chuyện trên chịu ảnh hưởng khá thụ động từ thiền thoại “Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu”?

Thực ra, về bản chất, ngộ không phải là trạng thái siêu thoát tâm linh, thần bí. Cốt lõi của Đốn ngộ là ở cái “khoảnh khắc” nhưng cần nhìn khoảnh khắc đó trong mối quan hệ với quá trình. Không có sự tu tập, tham cứu cả đời sao có phút giây bừng tỉnh, vỡ lẽ, thức nhận chân lý. Không kinh qua tận cùng cái sắc, sao có thể ngộ được bản chất không không. Cho nên dẫu tìm cầu và bắt gặp cơ duyên thì người muốn đạt ngộ vẫn phải có sẵn nền tảng tu tập, phải tích sẵn chất nổ để khi đốt ngòi nổ là sẽ bùng cháy. Bản chất của Ngộ là sự tự chứng sau khi đúc kết, tích lũy trong cả quá trình nên không thể thiếu một yếu tố quan trọng: sự trải nghiệm đời sống.

2. Thiền chưa bao giờ rời xa cuộc sống, nên Ngộ, trạng thái “kiến tính thành phật”, cũng cần có quá trình thực chứng từ đời sống. “Thượng sĩ ngữ lục” (Trần Tung) ghi lại nhiều trường hợp “Tùy cơ duyên mà ứng đối” trong đó có một câu hỏi khá thú vị: “Thế nào là phật chính mình?”. Tuệ Trung thượng sĩ trả lời khá mơ hồ: “Không nhắp rượu bồ đào- Khó tìm người đập hũ”[3]. Phải chăng, cần hiểu câu nói trên qua ý nghĩa của quá trình chứng nghiệm tự thân? Đốn ngộ thực chất là bừng con mắt huệ để nhìn thấy một con đường, một thế giới mà trước đó nhiều người đã từng nhìn thấy. Không có sự hướng dẫn, chỉ dạy tỉ mỉ, không một sơ đồ tìm kiếm được xây dựng cụ thể bằng kinh nghiệm của người đi trước, anh phải nếm cái ngon của rượu mới hiểu được vì sao người ta lại đập hũ. Vân Phong hỏi Thiện Hội: “Làm sao tránh khỏi sinh tử?”. Thiện Hội trả lời: “Đi vào chỗ sinh tử” Vân Phong lại hỏi: “Chỗ sinh tử là chỗ nào?”. Thiện Hội trả lời: Nó nằm ngay trong chỗ sinh tử”[4]. Ngũ tổ Hoằng Nhẫn nói rõ hơn: “Hiểu rõ sanh tức là pháp vô sanh, chẳng phải ly sanh mới có pháp vô sanh”[5]. Muốn hiểu rõ lẽ vô sanh vô tử, chỉ có một cách duy nhất là trải nghiệm đến tận cùng sự sinh tử, để bước qua nó, vượt lên trên nó và nhìn thấy bản chất đích thực của nó. Quảng Nghiêm thiền sư thời Lý cũng chọn điểm xuất phát cho mọi nhận thức về bản chất của sự tồn tại chính là ở chỗ tự chứng những gì mình đã nếm trải từ thực tế. Những lời nói mơ hồ, những suy nghĩ viển vông về thế giới ta chưa từng nhìn thấy e rằng khó thuyết phục được ai:

“Rời được cõi tịch diệt mới nói chuyện tịch diệt

Sống ở cõi vô sinh mới nói chuyện vô sinh” (Hưu hướng Như Lai)

Xem ra, nhà sư trên Yên Tử không cho Trần Thái Tông ở lại tìm Phật là có lý do. Nhà vua trẻ tuổi buồn bã trốn đời tưởng tìm được chỗ bình yên nhưng hóa ra tâm nào có yên. Ông tìm đến Phật như một chiếc phao cứu vớt tâm linh, một biểu hiện của ý thức thừa nhận “cái có”, của cảm giác chán nản, bế tắc, của dục vọng tìm cầu và nỗi đau khổ khi không thỏa mãn được dục vọng đó nên nhà vua sẽ không bao giờ tìm thấy Phật. Muốn được bình yên, chỉ có cách duy nhất là phải đi qua sóng gió cuộc đời, phải trở về với cuộc đời. Mãi sau này, khi đã kinh qua những biến động lịch sử lớn lao với vai trò người lèo lái con thuyền dân tộc, từng xông pha nơi nguy hiểm, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, lại còn tham cứu đạo thiền nhiều năm, bấy giờ nhà vua mới “khoát nhiên tự ngộ”. Tác giả Nguyễn Lang hoàn toàn có lý khi cho rằng: “Những đau khổ nội tâm mà vua phải chịu đựng trong thời trai trẻ hẳn đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy vua quyết tâm học Phật và tu tập Thiền đạo”[6]. Phải trải qua những kinh nghiệm đau đớn, phải dồn tích, nén chặt năng lượng mới có thể bùng nổ khi có một lực tác động bất ngờ. Phải sống với cái Sắc đến tận cùng thể xác và tâm hồn mới chứng ngộ được cái Không, mới vượt qua được giới hạn của sự phân biệt Sắc Không để có thể bình thản trước chuyện sống chết. Nếu chỉ đọc sách võ vẽ dăm câu rồi bảo là ngộ thì thực chất chỉ là lừa người, dối mình. Hoặc giả, trước đó chưa từng biết Thiền, chỉ nghe một câu kinh mà tự ngộ thì sự bừng sáng tâm linh trong khoảnh khắc e rằng khá mơ hồ và khó thuyết phục.

Những thiền nhân nổi tiếng khác đời Trần chẳng đã từng trải nghiệm cuộc sống đến tận cùng hạnh phúc và đau đớn đó sao? Thánh Tông, Nhân Tông, Tuệ Trung thượng sĩ (con trai Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo Vương), … đều từng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba, lập nhiều chiến công lừng lẫy. Họ là con người của cuộc đời, đi tìm sự chứng ngộ và giải thoát từ chính cuộc đời. Tuệ Trung thượng sĩ, người tiếp tục tinh thần của các thiền sư trước đó như Tiêu Diêu, Ứng Thuận, Nhất Tông, Giác Minh, Giác Viên, Thường Chiếu,… luôn tuân theo nguyên tắc “Tùy tục”, “Trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng, không trái hẳn với người đời”[7], chủ trương không cần trì giới và nhẫn nhục, cứ sống giữa đời mà vẫn đạt đạo. Nhân tông 40 tuổi mới khoác áo nhà sư đi chu du thuyết pháp. Vị tổ đời thứ nhất thiền phái Trúc Lâm luôn muốn tìm thấy sự chứng ngộ từ chính quá trình trải nghiệm và tham quán những điều tưởng như nhỏ nhặt, tầm thường của cuộc sống khi nói: “Này quý vị! Thời gian trôi qua nhanh chóng, mạng sống con người trôi chảy không ngừng, tại sao hằng ngày biết ăn cháo ăn cơm mà lại không biết tham khảo ngay về vấn đề cái chén cái thìa”[8] . Quả đúng vậy, trả lời về gia phong của Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai, Nhân Tông dùng vô số hình ảnh đời thường để điểm ngộ cho người học đạo, từ lý trắng, đào hồng, đến nhạn sớm, gió xuân, từ “Thôn chài nghe sáo khách trông nhà” đến “Áo rách đùm mây đun cháo sớm- Bình xưa đựng nguyệt nấu trà khuya”[9]. Có lẽ thú vị và huyễn hoặc nhất là câu chuyện Anh Tông chọn vẻ đẹp trần tục, đầy sức hấp dẫn của cung nhân Điểm Bích làm phép thử mạnh đối với đạo hạnh của Huyền Quang[10]. Nhà sư này đã chứng minh rằng mình đã đến cảnh giới đạt ngộ khi vượt qua được cửa ải khó khăn và đầy cám dỗ nhất của cuộc đời là sắc đẹp của người phụ nữ.

Những ông vua, những thiền nhân- thi sĩ thời Trần chứng ngộ phật pháp ngay từ thực tiễn. Họ từng đi qua chiến tranh mất mát, những thăng trầm lịch sử, những thời điểm thăng hoa của kì tích lẫy lừng, những giây phút tỏa sáng hạnh phúc hay dằn vặt đau khổ. Họ sống trong một giai đoạn thật kỳ lạ, hoành tráng, hào hùng, khắc nghiệt, dữ dội. Họ đã làm được nhiều điều lớn lao trước khi “biết đủ” và quay về với đời thường để một khoảnh khắc nhận ra chẳng có gì là bất tử cả. Thiền giúp họ tìm được niềm vui an nhàn tự tại, tạo lập được thế cân bằng của tâm hồn. Nhưng nếu không có thực tiễn, không có lịch sử dữ dội và những thử thách ghê gớm từ đời sống, liệu họ có nhận ra giá trị của sự giải thoát, của cái tâm trong sáng, tĩnh lặng, an nhàn hay không?

3. Đặc điểm của Ngộ là tính khẳng nhận, không có đúng sai, phải trái, chỉ có biết và chưa biết, thấy và chưa thấy. Trong cái “chưa thấy”, “chưa biết” đã bao hàm ý nghĩa nhấn mạnh sự non nớt, thiếu trải nghiệm mọi cái “sắc” của cuộc đời nên chưa nhận ra bản chất không không của thực tướng. Ngộ có tính bội lý, tự tri, vượt ra ngoài mọi kiến giải, lập luận logic nên “bất lập văn tự”. “Đạo không ở trong câu hỏi- Câu hỏi không ở trong đạo” (Đạo bất tại vấn. Vấn bất tại đạo- Đối cơ- Tuệ Trung) cho nên người đã ngộ không thể giải thích, miêu tả được bước ngoặt lớn lao đang diễn ra trong tâm linh, cũng không thể hướng dẫn cho người khác. Bản thân anh phải tự chứng ngộ trong đời sống như tự mình biết nóng lạnh, đau khổ, hạnh phúc, nhục nhằn. Đúng là: “Gãi ngứa đâu phải ngứa của người- Đói ăn chính thật bụng nhà ngươi” (Đối cơ). Ngộ còn có tính tuệ giác[11]. Khác hẳn với cái thấy do kiến thức, nhận thức, tư duy mà có được, Ngộ là sự nhìn thấy do con mắt “thứ ba” được khai mở khiến trí huệ sáng suốt và tâm lắng đọng hư không, tịch mịch như “bóng trăng trên đỉnh Lăng Già”. Nhưng muốn vượt qua mọi định kiến nhị phân để con mắt tuệ giác có thể nhìn thấy bản chất siêu logic của sự tồn tại, trước hết anh phải nhìn thấu suốt đời sống để thấy cái lõi của đời sống, của sinh tử vô thường. Người đã ngộ có thể dùng con mắt huệ xuyên chiếu qua sắc thân để nhìn thấy “Gáo đầu lâu hoa cài ngọc giắt, túi da thối xạ ngát hương xông. Cắt lụa là che bọc máu nồng; giồi son phấn át thùng phân thải. Trang sức bề ngoài như vậy vẫn là cái gốc nhớp nhơ” (Phổ thuyết sắc thân – Trần Thái Tông). Với các thiền nhân đời Trần, suy cho cùng, Ngộ nhất thiết phải là điểm đến của cuộc hành trình trải nghiệm đời sống.

4. Vấn đề cần được tiếp tục đặt ra là làm sao có thể chứng được rằng thiền nhân đã ngộ? Hãy xem anh ta trở về với cuộc đời như thế nào, bởi vì đặc điểm của Ngộ còn là siêu việt và vô ngã[12]. Cảm giác an lành của người đã ngộ không gắn với tính dục, với sự thỏa mãn của tính dục vốn là bản chất của nhân ngã, nó cũng không có hương vị ngọt ngào và thiêng liêng như khi cảm nhận tình yêu với thánh nhân, chúa trời. Cảm giác an lành ấy rất khô khan, lạnh lẽo, vô vị, thiếu hẳn những xúc cảm siêu nhiên như khi tắm mình trong vầng hào quang rạng rỡ, mùi hương thơm ngát, đê mê, khiến ta có thể chuyển hóa niềm say đắm trần tục thành niềm say đắm thanh khiết ở cõi trời. Quan trọng nhất là sau khi Ngộ, thiền nhân vẫn là một người bình thường, hoà lẫn vào thế tục, không ai biết họ là những người đã chứng đắc phật pháp, họ lao động và vinh dự với kết quả lao động của mình. Thiền sư Huệ Khả chỉ có hai cây kim, mùa đông vá quần áo, mùa hè cất đi, thường đi khất thực, không ngủ nơi nào hai đêm, đốn củi làm guốc. Bách Trượng Hoài Hải chuyên làm công việc nặng nhọc, ngày nào không làm, ngày đó không ăn[13]…

Thiền nhân đời Trần thường đề cập đến vấn đề xuất trần, thoát trần, vạn sự quy như, Thoái cư (Tuệ Trung) nhưng thoát trần, thoát tục để rồi Nhập trần (Tuệ Trung), Nhập tục dù rất luyến thanh sơn (Đồng Kiên Cương). Họ nói nhiều đến sự trở về, nhưng đó không phải là trở về nước Phật, cảnh Niết Bàn vô tử vô sanh mà thực chất là trở về, hòa hợp với đời thường. Lẽ sống của Trần Thái Tông là: “Ở ngay nơi ảo sắc mà cũng như nơi chân sắc, an trú trong phàm thân mà cũng như an trú trong pháp thân” (Cư huyễn sắc diệc danh chân sắc. Xử phàm thân dã thị pháp thân- Phổ thuyết sắc thân); cứ “Lẳng lặng nhởn nhơ giữa cõi trần, tùy cảnh ngộ- Cơm thường sau bữa chén trà vui” (Niệm tụng kệ); Tuệ Trung thượng sĩ tâm đắc với cuộc sống của một vị Phật ở trong đám người bình thường như đóa sen nở trong lò lửa (Tu tri thế hữu nhân trung Phật- Hưu quái lô khai hỏa lý liên- Thướng Phúc Đường tiêu dao thiền sư); thanh thản, tiêu dao, “hát xong khúc hát vô sinh thì cầm ngang ống sáo trở về làng cũ (Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì- Đảm hoành tất lật cố hương quy- Diệu tiên sư ). Có người hỏi: “Thế nào là thanh tịnh pháp thân”. Tuệ Trung trả lời: “Ra vào trong nước đái trâu- Chui rúc giữa đống phân ngựa” (Đối cơ- Thượng sĩ Ngữ lục). Cách nói có phần cường điệu chủ yếu là nhằm nhấn mạnh sự giải thoát của cái tâm an nhiên, trong sáng, tĩnh lặng đến mức những phiền muộn tục lụy nơi trần thế không thể xâm nhập được hệt như hoa sen không bao giờ bị bẩn lấm dù sống giữa bùn lầy: “Màu thu đậm nhạt tùy duyên sắc- Bùn sao vương được đóa sen hè” (Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc- Liên nhị hồng hương bất trước nê- Thị chúng). Trần Thánh Tông thích cuộc sống “Ăn cơm đi ngủ đều tùy ý- Ngoài ra không có việc gì đáng làm” (Tự thuật). Trần Nhân Tông thì trở về với chiếc giường thiền ở am mây cũ sau khi vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã già (Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão- Y cựu vân trang nhất tháp thiền- Sơn phòng mạn hứng), sống giữa đời mà vui đạo, đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì ngủ” (Cư trần lạc đạo thả tùy duyên- Cơ tắc xan hề khốn tắc miên- Cư trần lạc đạo phú);…

Sau khi Ngộ, ta vẫn phải là ta giữa cuộc đời để chứng minh rằng ta đã phá chấp, vượt qua mọi ràng buộc vọng kiến, lục dục, thất tình. Bởi lẽ, người ngộ không thể chứng minh rằng mình đã ngộ và người chứng thực cũng không có những căn cứ rõ ràng để xác tín. Đốn ngộ chỉ diễn ra trong tâm nên dễ bị xem là tự đắc, tự dối mình. Vì vậy, cuộc sống chính là phép thử khắc nghiệt nhất, chính xác nhất rằng anh có phải là người đã chứng đắc, giác ngộ thật sự hay không. Một thiền thoại khá thú vị kể rằng nhà sư già kiên nhẫn lắng nghe nhà sư trẻ thuyết pháp về chữ “không” vô hồi kỳ trận cho đến khi kết thúc mới bất ngờ quật thẳng chiếc dép vào mặt nhà sư trẻ khiến anh ta nổi giận, đỏ mặt tía tai. Chỉ một phép thử đơn giản cũng đủ hiểu anh ta vẫn coi chiếc dép là “Có”, vẫn cảm thấy ghê sợ vì dơ dáy, nhục nhã, đau rát, uất ức, những trạng thái cảm xúc đầy trần tục và mê lầm. Cho nên, vùi mình trong đám phân trâu phân ngựa mà vẫn thản nhiên, tự tại mới là Ngộ. Coi ngai vàng như chiếc giày rách, bỏ hoàng cung lên Yên Tử khoác áo nâu sồng hoặc về Thiên Trường ẩn cư ngay lúc hưng thịnh nhất của quyền uy mới là Ngộ. Ăn thịt, cá, chẳng cần “Trì giới và nhẫn nhục”, “hòa ánh sáng của mình vào bụi bặm thế tục” mà tâm vẫn thanh tịnh, chẳng cần phân biệt “nước Phật” với “cung ma” mới là Ngộ. Còn tranh cạnh danh lợi mãi không thôi, còn thèm muốn, thù ghét, giận hờn là chưa Ngộ. Điều này xem ra hoàn toàn ứng hợp với Thiền. Tận cùng của cái có là cái không. Tận cùng của mọi vẻ đẹp hào nhoáng, rực rỡ là sự thô mộc, lão thực, chất phác. Tận cùng của vinh quang là lui về quê nhà, với chiếc giường thiền ở am mây cũ, sống lặng lẽ, “đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì ngủ” (Trần Nhân Tông), để thức dậy mở mắt nhìn cuộc đời mà vẫn thấy say mênh mang (Khai nhãn túy mang mang- Ngọ thụy- Huyền Quang).

5. Có thể khái quát hành trình của các thiền nhân đời Trần như sau:

Từ cuộc sống --> trải nghiệm --> Đạt Ngộ --> Trở về cuộc sống.

Đó là một con đường phù hợp để tạo sự hài hòa giữa chính trị, xã hội với tâm linh, để có thể vừa gắn bó với đời sống vừa không bị đời sống chi phối, an nhiên tự tại giữa đời thường, vẫn thực hiện trách nhiệm, đạo lý nhưng vẫn có một khoảng trống của riêng mình. Điều này góp phần lý giải nguyên nhân vì sao các học giả Việt Nam thời kỳ đầu ưu tiên cho học phái Thiền tông hơn các học phái khác. Nó phù hợp với đặc điểm lịch sử của người Việt trong buổi đầu dựng nước, giữ nước đầy gian khó, đòi hỏi sự đóng góp của những người tài năng, những bậc đại trí, đại giác. Ngô Chân Lưu thay mặt vua tiễn sứ giả phương Bắc, Pháp Thuận bàn việc nước, Vạn Hạnh “Chống gậy trấn kinh kỳ”, Quảng Nghiêm kêu gọi “Nam nhi tự hữu xung thiên chí”, Thái Tông cần mẫn vừa học Nho vừa học Thiền “lo cho dân, gian nan, lăn lóc công việc”, Nhân Tông trở thành một vị du tăng vào tận Chiêm Thành để giải quyết quan hệ bang giao và ra sức xiển dương giáo lý Thiền với mong muốn xây dựng một hệ tư tưởng thống nhất, có thể liên kết toàn dân… Từ Đinh, Lê đến Lý, Trần, biết bao thiền nhân đã vượt qua mọi định kiến về lý thuyết xuất thế, siêu thoát để thực hiện sự hòa hợp tuyệt diệu giữa đạo và đời. Khi đất nước cần, họ sẵn sàng làm người công dân với đầy đủ ý thức trách nhiệm, khi đất nước thái bình, thịnh trị, họ trở về với đời thường, chiếc áo cà sa lấm bụi trần thế che giấu cái tâm tỏa rạng hào quang. Họ giải quyết ổn thỏa xung đột giữa nhu cầu giải thóat cá nhân và giải thoát cộng đồng bởi vì họ vừa là những nhà chính trị, nhà tư tưởng ưu tú vừa là những thiền nhân đạt ngộ nhờ kinh qua bao trải nghiệm khắc nghiệt từ thực tiễn dựng nước, giữ nước hào hùng trong buổi bình minh của lịch sử phong kiến Việt Nam./.

TS. Nguyễn Kim Châu

Khoa Khoa học xã hội và nhân văn Đại học Cần Thơ

Chú Thích

[1] Thơ văn Lý Trần- NXB Khoa học xã hội- Hà Nội- 1989- trang 27

[2] Cảnh Đức truyền đăng lục- Sa môn Đạo Nguyên, Lý Việt Dũng dịch- NXB Tôn giáo 2006- trang 334.

[3] Thơ văn Lý Trần (sđd)- Trang 321

[4] Theo “Việt Nam phật giáo sử luận”- Nguyễn Lang – NXB Văn học- HN – 2000- trang 163

[5] “Cảnh Đức truyền đăng lục” (sđd)- trang 252

[6] “Việt Nam phật giáo sử luận” (Sd9d)- trang 219.

[7] “Thượng sĩ hành trạng”- Trần Nhân Tông- Thơ Văn Lý Trần (sđd) - trang 545.

[8] Trần Nhân Tông- Thiền đạo yếu học – Chuyển dẫn “Việt Nam Phật giáo sử lược- Sđd- trang 294

[9] Trần Nhân Tông- Sư đệ vấn đáp- Thơ văn Lý Trần (sd9d)- Trang 494.

[10] Thơ văn Lý Trần (sđd)- Trang 717

[11] D.T. Suzuki- Thiền luận- Quyển trung – (Trúc Thiên dịch)- NXB Tổng hợp TPHCM- 2005- trang 26-28

[12] D.T. Suzuki- Thiền luận- quyển trung- Sđd- trang 29-30

[13] Cảnh Đức truyền đăng lục sdd- trang 222 và 472.

Đặc điểm của Phật giáo Việt nam giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên



Viết bởi Trần Tiến Đạt
http://www.thaiphienphoto.com/images/gallery/160708-7lar.jpgPhật giáo là một trong những tôn giáo lớn và có ảnh hưởng nhất định đối với các vấn đề chính trị xã hội của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Phật giáo du nhập vào nước ta trong hoàn cảnh đất nước bị phong kiến phương Bắc đô hộ, cùng với đó là sự tồn tại của truyền thống văn hoá của dân tộc và những tín ngưỡng bản địa đã có từ lâu đời. Giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên là giai đoạn mà Phật giáo du nhập và bước đầu đi vào đời sống của dân tộc Việt và dần trở thành nhân tố góp phần làm nên bản sắc văn hoá Việt Nam. Vì thế, tìm hiểu đặc điểm của Phật giáo Việt Nam giai đoạn này là việc làm có ý nghĩa trong việc giúp hiểu sâu hơn cội nguồn văn hoá Việt Nam.

MỞ ĐẦU

Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, người sáng lập là Tất Đạt Đa (Siddhartha), họ Gautama, sinh khoảng năm 563 tr.CN ở kinh thành Kapilavastu (chân núi Himalaya về phía nam, nay thuộc miền nam nước Nêpan), là thái tử con vua Tịnh Phạn. Người đời tôn xưng ông là Thích Ca Mâu Ni (Sakymuni). Ông mất năm 483 trước CN, thọ 80 tuổi. Đạo Phật truyền ra ngoài biên giới rất sớm, vào năm 300 tr.CN, hoàng đế A Dục (Asoka) có gửi nhiều phái đoàn truyền giáo ra nước ngoài, trong đó có Đông Nam Á. Về phía nam Phật giáo truyền đến Srilanca, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Inđônêxia. Người ta gọi là phật Giáo Nam tông và theo dòng Tiểu thừa. Về phía bắc phật giáo truyền vào Nê Pan, Trung Quốc, các nước Trung Á, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Người ta gọi đó là Phật giáo Bắc tông và theo dòngĐại thừa.

NỘI DUNG

1. Bước đầu du nhập, phát triển của Phật giáo Việt Nam giai đoạn dầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nghuyên

Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam thời kỳ đầu Công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên gắn liền với bối cảnh đất nước đang phải chịu cảnh đô hộ của phong kiến phương Bắc, từ Nam Việt đến Đường, trải qua trên 1000 năm (từ 179 trc.CN đến 938). Chính sách đô hộ của chính quyền ngoại bang biểu hiện từng thời kỳ có khác nhau nhưng mục đích thì không thay đổi. Về chính trị thì đó là âm mưu tìm cách triệt để thủ tiêu nền độc lập. Về quân sự, đó là quyết tâm đè bẹp mọi sự phản kháng của quần chúng nhân dân. Về kinh tế đó là chính sách vơ vét của cải và tài nguyên của đất

nứơc ta. Về văn hóa, đó là từng bước thực hiện mưu đồ đồng hóa dân tộc.

Chính sách đô hộ của các triều đại phương Bắc hơn một thiên niên kỷ đã kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển về mọi mặt của đất nước và dân tộc ta. Song không cam tâm làm nô lệ, nhân dân ta đã liên tục và không ngừng vùng lên đấu tranh để giành lại độc lập tự chủ cho dân tộc. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (vào khoảng năm 40 – 43), cuộc khởi nghĩa Lý Bí thành lập nhà nước Vạn Xuân (542), cuộc khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ (905), cuộc kháng chiến của Dương Đình Nghệ khôi phục quyền tự chủ (931) và chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền (938) chấm dứt nền đô hộ của phong kiến phương Bắc.

Trong giai đoạn từ đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên, mặc dù chính quyền đô hộ ra sức đồng hóa nhằm Hán hóa Việt tộc và nền văn hóa Việt, song trong các xóm làng người Việt, nhân dân ta vẫn giữ vững và không ngừng phát triển nền văn hóa bản địa. Chính quyền đô hộ đã thực thi nhiều chính sách và biện pháp để đồng hóa nhưng không thể hủy diệt tiếng nói của dân tộc.

Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp thời Văn Lang – Âu Lạc vẫn được giữ gìn như tục nhuộm răng, ăn trầu, bơi chải, đấu vật, chọi trâu, đá cầu, đánh đu, đánh phết, ném còn, đề cao các anh hùng dân tộc, người già, phụ nữ. Trong các lễ hội hàng năm như hội làng, hội mùa xuân mặc dù có biến đổi ít nhiều trong các nghi lễ nhưng tính chất cơ bản vốn có từ thời Văn Lang – Âu Lạc vẫn được bảo lưu.

Trong cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp để bảo vệ di sản truyền thống dân tộc, nhân dân ta đã biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa ngoại nhập phù hợp với đặc tính, tâm hồn người Việt Nam để làm phong phú thêm nền văn hóa truyền thống. Phật giáo truyền vào Việt Nam, được nhân dân tiếp nhận một cách nhanh chóng, nó ngày càng được phổ biến, phát triển mạnh mẽ và tạo dựng được chỗ đứng trong lòng nhân dân và đồng thời nó cũng tiếp thêm sức mạnh cho dân ta đấu tranh chống Hán hóa, góp phần bảo vệ nền văn hóa cổ truyền.

Năm 273 vua Asoka lên ngôi ở Ấn Độ, ông đã cử nhiều phái đoàn ra nước ngoài truyền đạo đến các nước phương Tây, phương Đông cũng như các nước Đông Nam Á. Nó mở đầu cho sự du nhập Phật giáo vào nước ta. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thành Nê Lê nơi có bảo tháp của Asoka là nơi tiếp nhận đầu tiên. Như vậy Phật giáo vào nước ta khoảng cuối thế kỉ III đầu thế kỷ II tr.CN.

Phật giáo du nhập vào nước ta bằng nhiều con đường nhưng chủ yếu là bằng đường biển, các nhà sư theo các thuyền buôn sang truyền đạo ở nước ta. Xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã ba Srilanca, Inđônêxia, Việt Nam những người thương nhân Ấn đã tới vùng này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến viễn dương này, họ thường thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà truyền bá đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á.

Đến thế kỷ II sau công nguyên trong ba trung tâm Phật giáo đời Hán là Luy Lâu, Bành Thành, Lạc Dương thì Luy Lâu trên đất Giao Chỉ là được hình thành sớm nhất và nó cũng là trung tâm Phật Giáo lớn. Đây là nơi nghiên cứu và truyền bá Phật giáo, nó có khoảng 20 ngôi chùa, 500 cao tăng và đã dịch được 15 bộ kinh ra tiếng bản địa. Đến cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III có nhiều nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam để truyền đạo như Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực. Đầu thế kỷ III bắt đầu xuất hiện những nhà sư sinh ra và tu ở Việt Nam như Khương Tăng Hội - người được coi là ông tổ của phái Thiền Việt Nam. Từ

Trung Quốc sang thì có Mâu Tử (Mâu Bác) tu ở Việt Nam. Mâu Tử cũng đã viết tác phẩm Phật giáo đầu tiên ở Giao Châu là “Lý hoặc luận”. Đến đời Đường thế kỷ VII có Vân Kỳ, Chí Hạnh đã đến Ấn Độ học Phật. Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X Phật giáo Việt Nam còn tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc. Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Thiền Tông trong thời kỳ này có hai Thiền phái đó là dòng Thiền của Tỳ Ny Đa Lưu Chi và dòng Thiền cuả Vô Ngôn Thông.

2. Đặc điểm Phật giáo Việt Nam Giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên

Khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối sống của người Việt. Những quan điểm trong giáo lý, giáo luật,…của Phật giáo gần với đời sống tâm linh của người Việt, với những nét văn hoá Việt. Mặt khác, nếu như Nho giáo đi vào nước ta cùng với quân xâm lược, là một yếu tố để thực hiện chính sách nô dịch, đồng hoá dân tộc ta thì Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng phương thức hoà bình đồng thời nó là tường thành, là động lực giúp người dân Việt chống đồng hoá. Người Việt Nam tiếp nhận Phật giáo như một tín ngưỡng hơn là một lý luận, hệ tư tưởng, nó kết hợp với các tín ngưỡng bản địa như tục thờ mẫu, thờ tổ tiên… Nó dễ đi vào đời sống của người dân cùng với khuynh hướng nhập thế của các nhà sư càng làm cho đạo Phật càng có sức sống mãnh liệt hơn.

Sự kết hợp với tín ngưỡng, văn hoá bản địa đã tạo nên một sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Chính vì vậy mà Phật giáo khi đến Việt Nam đã mang những đặc điểm mới khác với Phật giáo nguyên mẫu.

Thứ nhất, Phật giáo Việt Nam giai đoạn này đã chuyển từ ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ sang ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc.

Nếu như Phật giáo lúc đầu được truyền trực tiếp từ Ấn Độ sang, mang những dấu ấn của Phật giáo Ấn Độ thì trong quá trình phát triển Phật giáo Việt Nam đã chuyển từ ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ sang ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc. Vấn đề ảnh hưởng Phật giáo từ Ấn Độ (từ khi du nhập đến khoảng thế kỷ VI) ở nước ta thể hiện rõ nhất qua truyền thuyết về Khâu Đà La và Man Nương. Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X Phật giáo Việt Nam tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật giáo Bắc phương đã chiếm ưu thế và thay chỗ đứng của Phật giáo Nam phương vốn có từ trước. Đồng thời sự ảnh hưởng đó còn được thể hiện ở việc ba tông phái chính của Trung Hoa cũng được truyền vào Việt Nam đó là Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông và qua một số tập tục như: tập tục đốt vàng mã, tập tục coi ngày giờ, tập tục cúng sao hạn, xin xăm, bói quẻ,…

Thứ hai, Phật giáo Việt Nam phát triển theo khuynh hướng Thiền.

Trong hoàn cảnh văn hoá giao lưu phức tạp, mâu thuẫn xung đột ở thời kỳ này, vấn đề chi phối tinh thần giới trí thức lãnh đạo là phải tìm cách giải quyết làm sao vượt được lên trên mâu thuẫn xung đột để đạt tới cái điểm nhất trí trong tinh thần, trong tư tưởng. Vì vậy mà Phật giáo Việt Nam ở thời kỳ này cũng phát triển theo khuynh hướng Thiền. Ở hoàn cảnh địa lý, xã hội ấy, Giao Châu ấy Mâu Tử tìm các khuynh hướng mâu thuẫn, xung đột của thời đại để có một hệ thống nhất quán về tư tưởng. Điều đó được thể hiện trong tác phẩm có giá trị lịch sử của ông là “Lý hoặc Luận”. Mâu Tử đã tìm ở Phật giáo Giao Châu lấy cái nguyên lý duy nhất cơ bản khá sâu rộng để có thể tổng hợp nhất quán ba truyền thống chính yếu trên: xã hội, thiên nhiên và tâm lý như ông đã viết: “Tuy

đọc sách Ngũ Kinh của Nho giáo, ưa thích lấy làm hoà, kìa thành quả nữa. Rồi đến khi tôi coi đến triết lý ở kinh Phật, xem yếu lý của Lão Tử, giữ cái đức tính điềm đạm, nghiệm cái hành động vô vi. Bấy giờ mới ngoảnh lại nhìn sự đời khác nào đứng trên đỉnh trời cao nom xuống ngòi lạch, trèo lên ngọn núi nhìn xuống gò đống vậy. Sách Nho Ngũ Kinh cũng như 5 vị ăn, đạo Phật như 5 thứ gạo thóc. Từ khi tôi được biết đạo Phật đến nay thật như vén mây mù thấy mặt trời sáng, soi đuốc cháy vào trong nhà tối vậy”. Cái tinh thần ấy Mâu Tử đã tìm thấy ở tâm linh thực nghiệm của Phật giáo thích ứng với hoàn cảnh địa lý, xã hội Giao Châu thời Sĩ Nhiếp thực đã mở đường cho Thiền học Việt Nam. Như vậy có thể nói người khởi xướng cho Thiền học Việt Nam đó chính là Mâu Tử.

Nhưng theo Nguyễn Lang trong “Việt Nam Phật giáo sử luận” lại cho Thiền học Việt Nam khởi đầu bằng Khương Tăng Hội vào đầu thế kỷ III. Không những Khương Tăng Hội là sáng tổ của Thiền học Việt Nam, ông cũng còn phải được xem là người đầu tiên đem Thiền học phát huy ở Trung Hoa nữa. Vai trò xướng minh Thiền học của Khương Tăng Hội ăn sâu cả vào trong truyền thuyết.

Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng Thiền ở Việt Nam trở thành tông phái bắt đầu từ Tỳ Ny Đa Lưu Chi. Năm 580 Tỳ Ny Đa Lưu Chi sang Giao Châu trú tại chùa Pháp Vân giảng dạy Phật pháp và dựng nên dòng Thiền thứ nhất. Từ đó dòng Thiền bắt đầu nảy nở ở nước ta. Nó chấm dứt thời kỳ nửa tối nửa sáng, lẫn lộn lung tung giữa các khuynh hướng tín ngưỡng hỗn tạp của Phật giáo thần thông với triết lý Duy Thức, của Bà La Môn giáo với phép tu Yoga, của thần đạo với những Tứ pháp. Nó nâng mục tiêu của sự tu hành lên khỏi cái đích thực dụng do tác động của mê tín dị đoan và mở ra một chân trời mới: tu để đến cõi giác, để tự giải thoát mình và tinh thần mình khỏi điều cố chấp để cho tâm linh mình hoàn toàn trong sáng mà nhìn thấy chân lý, cũng như hiểu chân lý và sống cái chân lý ấy.

Thứ ba, với đặc điểm là phần lớn người Việt là mù chữ nên họ không đi vào kinh điển Phật giáo do đó mà Phật giáo Đại thừa phát triển và chiếm ưu thế.

Điều này được thể hiện rõ khi ta xét những quan điểm trong sách “Lý hoặc Luận” của Mâu Tử và trong các kinh mà Khương Tăng Hội đã dịch. “Trong bài tựa kinh “An ban thủ ý” Tăng Hội có viết: “An ban là đại thừa của chư Phật để tế độ chúng sinh…Ngoài ra ông còn dịch kinh “Tiểu phẩm bát nhã” (Bát thiên tụng bát nhã) là kinh điển căn bản và xuất hiện sớm nhất trong văn hệ Bát Nhã thuộc khuynh hướng Đại thừa.”. Phật giáo Đại thừa chủ trương tất cả chúng sinh đều có sẵn Phật tính, có khả năng giác ngộ, chỉ phải cởi mở che lấp đi là hoàn toàn giải thoát. Cái che lấp đó là tư dục tự nó không có thật, không tự tính, chỉ vì ảo hoá mê vọng mà nhận là có thật. Đến khi giác ngộ nó là ảo hoá mê vọng thì hết mê vọng. Đến Thượng thừa Kim Cương mới lại tiến lên bước nữa mà cho rằng dục vọng tự nó không xấu, vì tự nó không có thật. Nó chỉ xấu vì không biết chân lý đại đầu. Một khi hết chấp vào cái ngã ảo hoá mà giác ngộ bản tính đại đồng thì tha nhân cũng là ngã nhân, sinh tử cũng là Niết bàn. Một số tập tục như cúng rằm, mùng một, lễ chùa và tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh và bố thí là ảnh hưởng từ Phật giáo Đại thừa.

Thứ tư, Phật giáo khi được truyền vào Việt Nam đã được tiếp xúc ngay với tín ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ, hoà mình vào các tín ngưỡng này với tư thế là một luồng văn hoá ngoại lai, có xu hướng bản địa hoá ngày càng rõ rệt.

Qua lăng kính tư tưởng yêu nước, ý thức cộng đồng mà Phật giáo cũng có sự cải biến. Phật ở giai đoạn này cũng phải là người cứu dân ra khỏi lầm than khổ cực bằng cách tham gia chống hạn (Phật Mẫu Man Nương), gạt bỏ những tên quan tham lam tàn bạo (trong tư tưởng của Mâu Tử và Khương Tăng Hội) và lên án bọn phong kiến phương Bắc bằng quan điểm gieo ác thì gặp

ác, gieo gió sẽ gặp bão. Phật giáo ở Giao Châu lúc đầu là ông thần có phép lạ khuyến thiện trừ ác, sau đó trải qua cuộc khủng hoảng ở thế VI qua sáu bức thư, Phật tử ông thần trên mây được đưa vào tâmvới quan điểm Phật không ngoài tâm, ngoài tâm không có Phật. Như vậy là đã thực hiện được một bước chuyển ông Phật với tư cách là một vị thần lơ lửng có phép lạ vào trong tâm của mỗi người. Ở một khía cạnh nào đó có thể nói sự chuyển biến của Phật giáo thời Bắc thuộc là từ Chủ nghĩa duy tâm khách quan đi đến Chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Điều này phản ánh một hiện thực lịch sử là muốn đứng lên giải phóng dân tộc không thể trông chờ một lực lượng siêu nhiên bên ngoài mà phải phát huy nội lực vốn có của dân tộc, của mỗi con người. Đó là sự Việt hoá các nhân vật trong Phật giáo, là sự dung hoà giữa các tông phái,…Ví dụ vào Việt Nam, đức Phật

được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người dân thoát khỏi mọi tai hoạ, hay là làm nên mây, mưa, sấm, chớp để mùa màng tốt tươi; ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa cầu tự); ban lộc cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt; cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát…

“Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời

Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân”

(Ca Dao)

Thứ năm, Phật giáo bước đầu đã có sự hỗn dung với Nho giáo và Đạo giáo.

Trong thời kỳ Việt Nam bị phong kiến phương Bắc thống trị này, một mặt do sự cưỡng bức văn hoá, mặt khác do sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá và do tác động của tư tưởng dung hoà nên xu hướng tiếp thu, hội nhập các yếu tố văn hoá Hán và Ấn vào nền văn hoá bản địa đã hình thành, Đặc biệt là sự hỗn dung của các tôn giáo, giai đoạn này là mầm mống để nảy nở tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Nho, Phật, Đạo từ phương Bắc xuống, Phật giáo từ Ấn Độ sang được tiếp nhận, dung hoà vào nền văn hoá bản địa và nhanh chóng trở thành các thành tố của văn hoá Việt Nam.

Một đặc điểm trong đời sống tâm linh truyền thống của Việt Nam là sự cùng tồn tại hoà bình trong tinh thần khoan dung giữa những tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Trên nền tảng tín ngưỡng dân gian bản địa mang tính đa thần và phiến thần, ba tôn giáo chính đã du nhập vào Việt Nam là đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho. Những tôn giáo này một mặt đã thay đổi để thích ứng với thực tiễn xã hội – tâm linh Việt, một mặt đã đan xen, hỗn dung vào nhau do sự xúc tác của các tín ngưỡng dân gian. Các tôn giáo ở Việt Nam vì thế mà mang tính lai ghép và đã khác nhiều so với nguyên mẫu. Nó nhạt đi nhiều ở phần giáo lý mang tính lý thuyết siêu hình và đậm lên ở phần thực tiễn lễ thức và ứng xử nhân sinh.

Tín ngưỡng dân gian đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu công nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để tạo nên Tam giáo đồng nguyên (ba tôn giáo có cùng nguồn gốc) và Tam giáo đồng quy (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy củ nề nếp; Đạo giáo lo thể xác con người sao cho thư thái, khoẻ mạnh; Phật giáo lo cứu khổ, lo tâm linh, kiếp sau của con người. Bởi vậy mà người dân cần đến cả ba tôn giáo, họ sử dụng kết hợp chúng theo giới tính, theo các giai đoạn trong cuộc đời một cách nhuần nhuyễn. Người Việt Nam, phụ nữ thiên về Phật, đàn ông thiên về Nho.

Phật giáo thiên về xuất thế, chủ trương sống từ bi nên âm tính hơn; Nho giáo thiên về nhập thế chủ trương tham gia chính sự nên dương tính hơn. Cùng một người Việt Nam, khi trẻ trung thì học Nho để ra giúp nước, khi khổ ải trầm luân thì cầu trời khấn Phật phù hộ, khi ốm đau già yếu thì mời đạo sĩ đến trừ tà trị bệnh hoặc tập luyện dưỡng khí an thần.

Thứ sáu, Phật giáo đã tích cực đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống xâm lăng và đồng hoá.

Phật giáo đến Việt Nam khi Việt Nam mất đi nền độc lập đã được tạo dựng từ ngàn năm và nhân dân đang quằn quại đau thương dưới ách thống trị của tầng lớp cầm quyền Trung Quốc. Ở trong hoàn cảnh đó, những quan niệm của Phật giáo như từ, bi, hỷ, xả hay học thuyết Tứ ân đã góp phần phát huy và nâng cao tinh thần yêu nước và truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam.

Truyền thống tri ân và báo ân Tổ quốc đã giúp cho nhiều tăng sĩ mạnh dạn “Cởi áo cà sa khoác chiến bào”. Nhiều thế hệ Thiền sư và Phật tử vừa yêu đạo, vừa yêu nước, kháng cự lại tinh thần sùng ngoại Bắc phương Trung Quốc. Tinh thần Tứ ân của đạo Phật đã tạo ra cao trào tự cường dân tộc, toàn dân yêu nước và đoàn kết vì đại nghĩa quốc gia, nhiều lần đánh bại giặc Tống và giặc Nguyên từ phương Bắc. Nhờ tinh thần tự cường và độc lập của Phật giáo, dân tộc Việt Nam đã tìm ra được hướng đi mới, tách rời khỏi tư tưởng Khổng giáo vốn là đặc điểm nhận thức của chủ nghĩa đô hộ Trung Quốc đối với Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đã xoá được mặc cảm bị nô lệ Trung Quốc kéo dài mười thế kỷ, là nhờ vào tinh thần yêu nước và bình đẳng của Phật giáo. Tinh thần bình đẳng của nhà Phật khẳng định rằng nếu Trung Quốc có thiên triều và thiên tử thì Việt Nam cũng có thiên triều và thiên tử là các vị minh quân. Tư tưởng này là các yếu tố

cần thiết giúp dân tộc Việt Nam giải phóng khỏi ách nô lệ Trung Hoa to lớn. Nền chính trị độc lập và tự chủ của thời Lý - Trần, với tinh thần nhập thế của Phật giáo đã mở ra những triều đại độc lập tự chủ đầu tiên của lịch sử Việt Nam làm cho dòng chảy đồng hành với dân tộc của Phật giáo Việt Nam trở thành điểm son của văn hoá, chính trị Việt Nam.

Có thể nói rằng, ngay ở giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên Phật giáo đã thâm nhập vào trong tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam và đã trở thành một phần bản sắc dân tộc. Những đặc điểm của Phật giáo càng làm cho nó trở nên độc đáo và trở thành một thành tố trong nền văn hoá Việt. Theo dòng chảy của lịch sử, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng vẫn sẽ đồng hành cùng con người trong quá trình tồn tại và phát triển. Trong đó, Phật giáo sẽ giúp cho con người không quên cội nguồn, đồng thời là dùng từ, bi, hỷ, xả để đối xử với nhau dù cho xã hội có phát triển đến đâu đi nữa. Phật giáo vẫn sẽ gắn bó bền chặt với nền văn hóa, với con người Việt Nam.

Trần Tiến Đạt

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 2, NXB thành

phố Hồ Chí Minh.

[2] PGS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (2002 - chủ biên), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam tập 1, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.