Monday, December 13, 2010

TRANG 02

TRANG 02
(10/25/2010) (Xem: 76)
Tác giả : Tịnh Không


PHẬT HỌC VẤN ĐÁP

Lão Hòa thượng Tịnh Không
Nhóm Hoa Tạng Giảng Ký cung kính ghi chép

Bài ghi chép những câu trả lời của Lão Hòa Thượng Tịnh Không giải đáp vấn đề học Phật cho các bạn đồng tu. Bài này chưa được lão hòa thượng giám định, chỉ là do Nhóm Ghi Chép Bài Giảng Hoa Tạng nghe băng ghi âm rồi chép ra, biên soạn sơ khởi thành cuốn sách nhỏ này để cúng dường độc giả.

1. NIỆM PHẬT

Hỏi: Nếu mỗi ngày ngủ sớm dậy sớm, cả ngày nỗ lực quy y chiêm ngưỡng, tu hành đúng như lời dạy, diễn giảng cho người khác biết, nhưng từ trước đến giờ chưa dự Phật thất hay tinh tấn niệm Phật suốt đêm, xin hỏi như vậy có thể vãng sanh Tây phương không?

Ðáp: Dĩ nhiên là có thể. Tại vì trong ‘ngũ kinh nhất luận’ không có nói phải tham dự Phật thất mới có thể vãng sanh, và cũng không nói nhất định phải niệm Phật suốt đêm mới có thể vãng sanh. Chúng ta phải y theo pháp chớ không y theo người. 21-90-09

Chú thích: Ngũ kinh gồm có

Kinh A Di Ðà,

Kinh Vô Lượng Thọ,

Kinh Quán Vô Lượng Thọ,

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện (trong kinh Hoa Nghiêm), và

Chương Ðại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông (trong kinh Lăng Nghiêm).

Nhất luận là Vãng Sanh Luận.

Phật thất là thời gian “khắc kỳ cầu chứng”, tức là trong thời gian định kỳ cầu đạt được chứng cứ chứng tỏ mình sẽ vãng sanh - chứng cứ ấy chính là “Nhất Tâm Bất Loạn” (trích từ Tuyết Hư Lão Nhân Tịnh Ðộ Tuyển Tập), cũng như học sinh thường ngày học hành chăm chỉ, đến cuối khóa đi thi lấy bằng tốt nghiệp vậy. Tuy nhiên đối với người bắt đầu học Phật thì Phật thất là môi trường và trợ duyên rất tốt để hành giả luyện tập nhiếp tâm niệm Phật.

Hỏi: Má con đã niệm [câu] ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh’ bằng tiếng Nhật hết hai mươi năm, xin hỏi nên khuyên má con niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ như thế nào?

Ðáp: Ðiều này rất quan trọng, bạn nên lấy việc lợi ích của sự niệm Phật nói cho bà biết. Niệm [câu] ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh’ bằng tiếng Nhật thuộc phái Nhật Liên Tông. Quan trọng nhất vẫn là niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, nếu không niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ thì uổng phí mất đời này. 21-90-13

Hỏi: Nghiệp chướng cứ hiện ra hoài, xin hỏi đây có phải là vì niệm Phật có công phu không?

Ðáp: Không nhất định [như vậy], phần nhiều khi nghiệp chướng hiện ra đều làm chướng ngại cho sự dụng công. Khi công phu đắc lực rồi, nghiệp chướng có thể hiện ra để khảo nghiệm bạn. Ai đến khảo nghiệm? Những oan gia chủ nợ đời quá khứ; công phu của bạn đắc lực gần đến Cực Lạc thế giới, họ lo sợ nên đến phá rối, mong cản trở được bạn. Phần nhiều khi công phu tu hành đắc lực thì thường phát sanh hiện tượng này. Khi gặp những chuyện này, chúng ta phải thương lượng với oan gia chủ nợ, hy vọng họ đừng gây chướng ngại, khi chúng ta tu hành có kết quả vãng sanh Cực Lạc thế giới sẽ trở lại độ họ, thường thường họ đều đồng ý tiếp nhận. Bạn vãng sanh về Cực Lạc thế giới sẽ có năng lực để phổ độ chúng sanh. 21-90-41

2. TU TRÌ

Hỏi: Khi nghe kinh Vô Lượng Thọ [con] cảm thấy rất quen thuộc, có thể khế nhập, nhưng khi nghe kinh Hoa Nghiêm thì cảm thấy rất xa lạ. Xin hỏi có phải tại cảnh giới chưa tới?

Ðáp: Ai cũng có đời quá khứ và hiện tại, các bạn đồng tu học Phật chắc chắn không phải đời này mới bắt đầu học Phật, thiện căn của mỗi người đều rất sâu dày. Các pháp môn mà bạn tu trong đời quá khứ, đời này gặp lại sẽ cảm thấy rất quen thuộc, rất ưa thích; ngược lại nếu chưa học qua, đời này gặp được sẽ cảm thấy rất xa lạ. Việc bạn hỏi đại khái là đời quá khứ đã tu học [pháp môn] Tịnh Ðộ, đã niệm kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều lần rồi, cho nên khi vừa gặp liền sanh tâm hoan hỷ. Có lẽ lúc trước chưa học qua kinh Hoa Nghiêm, cho nên khi bắt đầu đọc thì cảm thấy rất xa lạ, nguyên nhân là ở chỗ này. 21-90-03

Hỏi: Thâm Chấn (gần Hương Cảng) là một thành phố có nền kinh tế khá phát triển, có rất nhiều ‘Phật sống, Pháp Vương Mật Tông’ đến hóa duyên. Rất nhiều bạn học Tịnh Tông đi quán đảnh, xin hỏi làm như vậy đúng không?

Ðáp: Ðây là nhân duyên của mỗi người không giống nhau, không thể bàn luận; nhưng phải hiểu rõ ý nghĩa chân chánh của sự quán đảnh không phải ở hình thức. Trên hình thức, nếu tưới một chút nước lên đầu liền được khai ngộ, như thế chúng ta học kinh giáo làm chi cho cực nhọc quá vậy! Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đâu cần phải thuyết kinh giảng pháp hết 49 năm, mỗi ngày tưới một chút nước lên đầu thì được rồi. [Vì vậy chúng ta] phải hiểu rõ đạo lý.

Bạn đi nhận sự quán đảnh, họ đem một chút nước tưới lên đầu bạn, bạn có thiệt khai ngộ không? Nếu khai ngộ được thì rất có công hiệu đấy! Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là Thượng Sư Mật Tông đã giải thích rất rõ trong quyển Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ: ‘quán’ là từ bi gia trì, ‘đảnh’ là pháp môn hạng nhất, thù thắng nhất trong Phật pháp. Quán đảnh là đem tinh hoa của Phật pháp truyền giao cho bạn, chứ không phải là tưới nước lên đầu.

Hiểu được điều này, mỗi ngày chúng ta đem kinh Vô Lượng Thọ hoặc kinh A Di Ðà từ đầu tới đuôi niệm một lần tức là đức Phật A Di Ðà đã ‘quán đảnh’ một lần cho chúng ta, niệm hai lần là ngài quán đảnh hai lần cho chúng ta. Ðó không phải là ‘Mật Tông Nhân Ba Thiết’ (Rinpoche) hay ‘Phật Sống’ quán đảnh cho bạn mà là đức Phật A Di Ðà quán đảnh cho bạn, thập phương chư Phật Như Lai quán đảnh cho bạn. Cho nên nhất định phải hiểu đạo lý của Phật pháp, phải biết cách tu học như thế nào mới đúng.

Bạn hiểu được thì tốt, khi gặp bạn bè họ hàng cũng nên đem những đạo lý này giải thích rõ ràng cho họ nghe. Còn vấn đề họ đi hay không thì mỗi người có nhân duyên riêng, không nên cản trở, như vậy thì mới được. 21-90-07

Chú thích: danh từ Rinpoche không quen thuộc với những người không học Mật Tông Tây Tạng. Rinpoche nghĩa là quý báu, trân quý, tiếng người Tạng tôn xưng các vị lama; cũng như từ Phật sống. Lưu ý là chỉ tín đồ Trung Hoa mới hay gọi những vị Pháp Vương là Phật Sống, chứ người Tạng hay Mông Cổ không gọi như vậy. Chữ lama cũng chỉ là dịch nghĩa chữ Guru, chứ lama không nhất thiết phải là Tăng.

Hỏi: Thâm Chấn thường có pháp sư đến để kết duyên và giảng pháp, phần lớn các bạn đồng tu Tịnh Tông cũng có đi nghe. Xin hỏi như vậy có phải là không chuyên nhất hay không?

Ðáp: Ðiều quan trọng nhất trong sự tu học Phật pháp là ‘Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu’ (Ði sâu vào một môn, huân tu suốt thời gian dài), tốt nhất là theo học một vị thầy. Khi nào mới có thể tách rời khỏi thầy giáo? Tiêu chuẩn của người xưa là phải khai ngộ, tức là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, lúc đó bạn đã tốt nghiệp rồi. Hồi xưa gọi là ‘xuất sư’, nghĩa là có thể lìa khỏi thầy giáo. Nếu bạn chưa minh tâm kiến tánh thì không thể tách rời khỏi thầy; nếu tách rời thì bạn nhất định sẽ đi sai đường.

Ðiều kiện khi tu học trong Tịnh Ðộ Tông không cao như vậy, chỉ cần đạt đến mức công phu thành phiến (thành khối), tự mình nắm chắc sẽ vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ai giảng kinh bạn cũng có thể nghe được, chỗ nào bạn cũng có thể đi được, vì không có phương hại. Nếu tự mình không thể nắm chắc việc vãng sanh Cực Lạc thế giới nên chuyên tu tốt hơn, cũng có nghĩa là đừng rời khỏi thầy giáo. Ai là thầy của mình? A Di Ðà Phật. A Di Ðà Phật ở đâu? Tức là kinh Vô Lượng Thọ, do đó mỗi ngày đều phải đọc tụng, ngày ngày phải suy nghĩ, phải hiểu đạo lý và phương pháp dạy trong kinh, y theo đó mà tu hành. Những gì Phật dạy, chúng ta nhất định phải nghiêm cẩn nỗ lực làm theo; những gì Phật dạy đừng làm, chúng ta nhất quyết không làm, chỉ cần thời gian hai ba năm thì bạn sẽ có thể nắm chắc việc vãng sanh.

Pháp môn Tịnh Ðộ thành công nhanh, chúng ta xem ‘Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục’ và ‘Vãng sanh truyện’, có rất nhiều người niệm Phật từ 3 đến 5 năm liền vãng sanh. Ðã có bạn đồng tu hỏi tôi: ‘Có phải là họ tu Tịnh Ðộ Tông thọ mạng chỉ có 3 năm hoặc 5 năm thì vừa đúng lúc vãng sanh?’ Tôi trả lời không hẳn là vậy, đâu có chuyện tình cờ ngẫu nhiên như vậy! Tại sao họ niệm Phật mới 3 năm, 5 năm thì đều vãng sanh? Vì họ làm đủ những điều kiện để vãng sanh, tất cả vọng tưởng đều dứt hết, hoàn toàn không lưu luyến tất cả những người và sự việc ở trên thế gian này, cho nên mạng sống không thèm nữa, vãng sanh sớm hơn. Vì chỉ cần so sánh hai thế giới, một bên vô cùng vui sướng, một bên vô cùng khổ não, có thể đi đến Cực lạc thế giới vô cùng vui sướng, tại sao phải ở lại thế giới vô cùng khổ não để chịu khổ? Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ, có thể đi mà không đi; đó là vì rất nhiều người ở thế giới này có duyên [với họ] đang cần giúp đỡ nên họ ở lại để giúp những người này và vãng sanh trễ đi. Nếu ở thế gian này không có duyên thì sẽ đi sớm hơn. Hiểu rõ đạo lý này, tu hành không thể không chuyên nhất, không chuyên nhất rất khó thành công. 21-90-07

Hỏi: Ở chùa Triều Dương có một vị cư sĩ tu hành cấm ngữ (không nói chuyện) được hơn hai năm rồi. Sau này con thấy tâm địa của người này không thanh tịnh, trong lời nói vẫn còn phiền não. Con nghĩ cách tu này cắt đứt pháp duyên với chúng sanh, cách khổ hạnh này rất đáng thương hại. Xin hỏi phương pháp tu hành này đúng không?

Ðáp: Cách suy nghĩ của bạn rất đúng. Mục đích của sự cấm ngữ là để chuyên tâm và xa lìa sự khuấy nhiễu của ngoại cảnh. Tuy miệng không nói chuyện nhưng còn dùng bút để trao đổi ý kiến với người khác, như vậy quá phiền phức, không bằng nói chuyện tiện hơn! Cách cấm ngữ của ông ta chỉ là hình thức, còn trong tâm thì không chấm dứt [nói chuyện]. Tổ sư đại đức dạy chúng ta tu hành phải tu từ căn bản, căn bản là tâm địa, mục đích yêu cầu là trong tâm phải được thanh tịnh, tâm địa không ô nhiễm, tâm địa xa lìa duyên bên ngoài. Trên hình thức khi gặp chúng sanh có duyên thì phải giúp đỡ, cấm ngữ cũng vẫn có thể giúp đỡ. Giúp những người nào? Những người nói chuyện tào lao nhiều quá. Thấy người khác không nói chuyện, nói chuyện nhiều không bằng nói ít, nói ít không bằng không nói. Nhưng phải khế cơ. Nếu bạn làm không khế cơ thì sự biểu diễn này vô ích, không ai hiểu được, không ai có thể được cảm hoá.

Nói tóm lại, những gì tâm mình nghĩ, những hành động mình làm nhất định phải tạo lợi ích cho chúng sanh; nếu không có lợi ích cho chúng sanh thì mình không làm. Thời gian và sức lực của chúng ta có hạn, nên làm những việc có lợi ích đối với xã hội đại chúng, cảm hóa xã hội đại chúng. 21-90-08

Hỏi: Sau khi làm theo phương pháp quán tâm, tạp niệm vọng tưởng ít đi, có thể duy trì trạng thái không niệm và vô niệm. Người xưa có nói: ‘Khởi tâm động niệm là Thiên ma, không khởi tâm động niệm là Ấm ma, đến lúc khởi không được nữa là Phiền não ma’. Có niệm và không niệm hình như đối nghịch nhau, xin hỏi rốt cục thì như thế nào mới đúng? Và Thiên ma, Ấm ma, và Phiền não ma là gì?

Ðáp: Trong kinh Lăng Nghiêm giải thích ý nghĩa của danh từ ‘ma’ rất rõ ràng. Kinh Lăng Nghiêm nói bất luận cảnh giới gì hiện ra, nhất quyết đừng nên chấp trước, như vậy mới đúng. Hơn nữa kinh Kim Cang có nói: ‘Phàm cái gì có tướng đều là hư vọng’.

Lìa khỏi vọng tưởng, chấp trước thật không dễ, Tịnh Ðộ Tông dạy chúng ta chấp trì danh hiệu, chuyên trì danh hiệu của đức Phật A Di Ðà, tất cả những thứ khác ngoài việc này ra đều đừng nên chấp trước, đây là một phương pháp rất hay. Dùng một câu ‘A Di Ðà Phật’ đem đổi tất cả những chấp trước khác, cách này dễ làm, nên pháp môn Niệm Phật được gọi là ‘Dị hành đạo’ (pháp môn dễ thực hành). Phật dạy chúng ta giữ vững câu Phật hiệu này mãi cho đến lúc mạng sống gần chấm dứt cũng vẫn còn niệm câu A Di Ðà Phật, đợi đức Phật lại tiếp dẫn, sau khi đến Cực Lạc thế giới rồi mới buông bỏ hết tất cả chấp trước. Chúng ta có thể dùng phương pháp này để đạt được Tây phương Tịnh độ, phương pháp này mới chắc chắn, đáng tin mà lại rất nhanh chóng; quả vị của sự thành công vãng sanh đến cõi Cực Lạc không thể tưởng tượng nổi, vượt hơn sự thành tựu của tất cả pháp môn khác. Chánh nhân là như vậy nên mười phương thế giới chư Phật Như Lai đều tán thán đức Phật A Di Ðà. 21-90-15

Hỏi: Giữa Tứ Niệm Xứ của Tiểu thừa, Thiền của Ðại thừa, Ðại Thủ Ấn của Mật giáo, và Pháp môn Quán Tâm có chỗ nào khác nhau? Có thể lấy chỗ dư bù đắp chỗ thiếu, bổ túc lẫn nhau hay không?

Ðáp: Danh từ, thuật ngữ, và phương pháp của mỗi tông phái không giống nhau nhưng đều có chung một mục tiêu, tinh thần, và nghĩa thú (ý nghĩa và đường hướng). Tứ niệm xứ thuộc về Thiền. Thiền là gì? Trong [Pháp Bảo] Ðàn Kinh, Lục Tổ có nói: ‘Bên ngoài không trước tướng là thiền, bên trong không động tâm là định’. Kinh Kim Cang nói: ‘Bất thủ ư tướng, như như bất động’. ‘Bất thủ ư tướng’ (không chấp tướng) là ‘thiền’, ‘như như bất động’ là ‘định’. Không bị ngoại cảnh mê hoặc, không kể là cảnh thuận hoặc cảnh nghịch khi lục căn tiếp xúc cảnh giới của lục trần đều không bị ảnh hưởng, lay động, và quấy nhiễu là ‘thiền’; vĩnh viễn giữ được tâm thanh tịnh, không sanh vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước là ‘định’.

Những pháp môn này có thể bổ túc và thành tựu cho nhau, nhưng tu hành thì nhất định phải ‘Ði sâu vào một môn’ (Nhất môn thâm nhập). Thiệt ra một môn có đầy đủ tất cả các môn khác, nhất quyết không được tu hai ba pháp môn cùng một lượt. Cho nên tu học nhất định phải lựa chọn pháp môn thích hợp với mình, thích hợp với công việc và trình độ trước mắt [sẵn có] của mình. Như vậy thì dễ thành tựu hơn. 21-90-15

Hỏi: [Con] coi rất nhiều sách Phật, xin hỏi như vậy có gây chướng ngại cho sự tu học của mình hay không?

Ðáp: Chuyện này hoàn toàn tùy thuộc từng cá nhân. Nếu bạn coi nhiều quá, bao gồm rất nhiều phương diện nhưng tâm địa vẫn thanh tịnh, không có phân biệt, chấp trước thì không chướng ngại. Nếu tâm địa không thanh tịnh thì tốt nhất phải nên xả bỏ [việc coi sách] 21-90-23

Hỏi: Nhà Phật nói: ‘Tướng chuyển theo tâm’, pháp sư nói chúng ta có thể dùng tướng mạo của mình để xem xét và đối chiếu với công phu tu hành. Xin hỏi có phải những người tu hành có tướng mạo xấu thì công phu tu hành cũng không tốt lắm?

Ðáp: Không hẳn vậy, tại vì tướng mạo của mỗi người có liên quan đến phước báo tu đời trước. Trước 40 tuổi, tướng mạo tốt xấu là do định sẵn từ đời trước, đây là phước báo của đời trước; sau 40 tuổi tướng mạo tốt xấu là do mình. Ðạo lý của câu này là ở chỗ nào? Từ khi sanh ra trong vòng 40 năm này, tâm hạnh thiện ác nhất định ảnh hưởng đến tướng mạo của bạn. Cho nên lúc trẻ tướng mạo rất đẹp, lúc lớn tuổi tướng mạo chưa chắc đã đẹp. Tướng mạo có thể biến đổi, biến tốt hoặc biến xấu cùng tâm hạnh (sự khởi tâm động niệm, hành vi sanh hoạt) của mình có liên hệ nhân quả rất mật thiết.

Phật nói Bồ Tát tu hành thành Phật đặc biệt dùng thời gian một trăm kiếp để chuyên tu 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp là quả thiện có được từ nhân thiện. Tại sao Phật phải dùng thời gian lâu như vậy để tu tướng đẹp? Ðây là một sự thị hiện, là biểu diễn cho chúng ta xem. Chúng sanh ai cũng đều hy vọng dung mạo của mình tốt đẹp, thân thể khỏe mạnh, đức Phật bèn thị hiện ra những thứ này để dạy cho chúng sanh biết tu nhân gì thì có thể được quả báo tướng mạo tốt đẹp; nếu bạn tu nhân này nhất định sẽ có được quả báo tốt như vậy. 21-90-40

Hỏi: Những người tu hành có tướng mạo hơi xấu, xin hỏi phải làm thế nào để khắc phục tâm lý tự ti của mình?

Ðáp: Nếu muốn tiêu trừ phiền não tự ti này chỉ có cách nhất tâm niệm Phật, đừng suy nghĩ đến tướng mạo tốt xấu. Chúng ta niệm Phật tu nhân chứng quả, quả báo này là cứu cánh viên mãn. Hiện nay tướng mạo xấu xí một chút cũng không sao, khi đến Cực Lạc thì sẽ có tướng mạo vô cùng xinh đẹp. Mỗi tượng của Thập Bát (18) La Hán và Ngũ bá (500) La Hán có một hình tướng khác nhau, rất nhiều vị có hình tướng vô cùng kỳ dị quái gở, nhưng họ có từ bi trí huệ nên cũng không khó coi cho lắm. Hiểu được đạo lý này thì đừng sanh tâm phân biệt chấp trước trên tướng tốt và xấu, chỉ cần nhất tâm niệm Phật, dần dần rồi thân thể và dung mạo của mình sẽ thay đổi, ngay cả mình cũng không biết nữa.

Kinh Vô Lượng Thọ nói khi sanh đến Cực Lạc thế giới thì dung mạo đều giống nhau. Tại sao dung mạo lại giống nhau? Tại vì người ở tha phương thế giới có dung mạo tốt đẹp thì thường sanh tâm ngạo mạn, dung mạo không đẹp thì sanh tâm tự ti xấu hổ. Ðức Phật A Di Ðà đại từ đại bi, dẹp bỏ việc này ở Cực Lạc thế giới. Cho nên khi sanh đến Cực Lạc thế giới, dung mạo của mỗi người đều giống đức Phật A Di Ðà, một chút xíu cũng không khác. Nếu dung mạo của ai cũng giống nhau có thể nào lẫn lộn không? Khi đến Cực Lạc thế giới mọi người đều có đầy đủ trí huệ và sáu thứ thần thông nên tuyệt đối sẽ không lẫn lộn. 21-90-40

3. TỬ SANH

Hỏi: Lúc còn sống có ý muốn hiến bộ phận trong thân thể cho người, xin hỏi lúc trước và sau khi lâm chung giải phẫu để lấy bộ phận này sẽ ảnh hưởng đến sự vãng sanh không?

Ðáp: Nếu lúc lâm chung và giải phẫu lấy bộ phận trong cơ thể, tâm bạn không có một tí sân giận gì cả thì bạn có thể làm chuyện này. Nếu lúc đó bạn lại cảm thấy đau đớn, lại hối hận, thì bạn không thể vãng sanh đến Cực Lạc thế giới, đây là một chuyện rất mạo hiểm. Khi bạn hiến bộ phận trong cơ thể cho người, bất quá chỉ giúp cho một người kéo dài sanh mạng vài năm mà thôi; nếu bạn có thể thành Phật, những chúng sanh trong hư không pháp giới được bạn độ không biết nhiều đến mức nào. Bài toán này [chúng ta] phải biết tính! 21-90-08

Hỏi: Con niệm Phật cầu vãng sanh, nhưng trong nhà có cúng tiên, đây là cơ duyên nhiều đời truyền lại. Xin hỏi lúc lâm chung làm thế nào mới có thể tránh gây chướng ngại cho việc vãng sanh?

Ðáp: Ở Hương Cảng tôi đã gặp qua việc này. Một Phật tử vô cùng thuần thành, trong nhà có cúng Hồ Tiên, hình như là trước khi học Phật thì đã cúng rồi. Hồ Tiên giúp đỡ cho họ, có ân đức đối với họ, sau khi học Phật rồi cũng không bỏ được. Như vậy thì nên tiếp tục cúng không? Trên tình trên lý đều có thể. Mỗi ngày bạn tụng kinh niệm Phật cho Hồ Tiên nghe, khuyên Hồ Tiên cũng niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, đây là chuyện tốt, bạn cũng độ cho họ. Hồ Tiên tuy là tiên, nhưng cũng chưa thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, khi phước báo và thọ mạng hưởng hết rồi cũng phải đọa lạc, không thể giải quyết vấn đề. Chúng ta cúng những vị tiên quỷ thần này, có thể nhờ họ làm thần hộ pháp, đem họ thờ ở hai bên tượng Phật, mỗi ngày mời họ làm công khoá sáng tối với mình, không cần đuổi họ đi. Vì vậy lúc làm công khoá sáng tối bạn phải làm hết lòng, nếu không họ sẽ giận và trừng phạt bạn; phải nghiêm cẩn thực hành, tự lợi lợi tha, tự và tha hai bên đều được lợi.

Phần đông các bạn đồng tu ở nhà ai cũng cúng bài vị tổ tiên, chư Phật Bồ Tát đều tán thán việc này. Bài vị tổ tiên cũng đặt ở hai bên tượng Phật; chúng ta cúng Phật và cúng tổ tiên, kính Phật và kính tổ tiên. Kính Phật là tôn sư, kính tổ tiên là hiếu đạo, cả hai đều đúng như pháp hết, đáng được đề xướng. Trong giảng đường của chúng ta ở Tân Gia Ba có đặt hai bài vị chung, một bài vị cho trăm họ của dân tộc Trung Hoa, còn bài vị kia cho tổ tiên của nước Cộng Hòa Tân Gia Ba. Phật dạy chúng ta hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng; chúng ta nhớ hoài không quên, như vậy là làm theo lời dạy của Phật Ðà. 21-90-08

Hỏi: Xin hỏi thế nào gọi là ‘Hoàn thọ sanh trái’? (trả nợ thọ sanh) Có nhiều thầy [sư] chuyên môn nhờ vào việc này để làm Phật sự, nói ‘thiếu nợ âm’ phải tụng kinh Kim Cang, và còn nói có thể chuyển định nghiệp. Con đã nhiều lần khuyên vị pháp sư này nhưng vị này vẫn không chịu, con nên làm thế nào?

Ðáp: Ðiều bạn nói gọi là ‘nợ thọ sanh’, đại khái là thiếu nợ của quỷ, thiếu nợ người qua đời. Trả nợ là chuyện tốt, nợ nần trước sau gì cũng phải trả, nhưng phải biết đừng nên thiếu nợ nữa, phải biết đạo lý này.

Các bạn đồng tu học Phật đều hiểu được cho dù đời này chúng ta không thiếu nợ chúng sanh, nhưng trong những đời quá khứ cơ hội tiếp xúc với Phật pháp rất ít, cơ hội không biết đến Phật pháp thì lại rất nhiều, làm sao có đạo lý không tạo nghiệp được? Trong vô lượng kiếp qua đã kết oán thù với tất cả chúng sanh, nợ nần xích mích không biết là bao nhiêu mà tính. Cho nên đường bồ đề có đầy chông gai, đâu cũng là nhân duyên gây chướng ngại cho đạo nghiệp, nhân này là từ những nghiệp không thiện đã tạo trong đời trước.

Ðức Phật dạy chúng ta đem tất cả công đức của mình có được khi tu hành, tụng kinh, lạy Phật đều hồi hướng cho họ, những việc thiện gì bạn làm đều cho họ hết, đây là để trả nợ. Nhưng bài kệ hồi hướng phải từ nội tâm chân thành phát ra lời sám hối thì việc hồi hướng mới có hiệu quả; nếu chỉ nói ngoài miệng mà trong tâm không chân thành thì không ích lợi gì hết. Từ hôm nay trở về sau khi chúng ta khởi tâm động niệm và hành động, tất cả đều để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, cho Phật pháp, trong đó không làm sai việc gì, công đức ngày hôm nay mới có thực chất để hồi hướng. Hai câu ‘Trên báo bốn ân nặng, dưới độ ba đường khổ’ bao gồm hết tất cả ân nhân và oan gia chủ nợ. Kẻ có ân thì bạn hồi hướng cho họ để trả ân; kẻ có oán thì bạn hồi hướng cho họ để giải trừ oan nợ. Cho nên nhất định phải phát xuất từ nội tâm, dùng tâm ‘chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi’ mà hồi hướng.

Còn vấn đề chuyển định nghiệp là không thể được, trong kinh điển Phật có ghi rằng cho đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không thể chuyển định nghiệp được. Hơn nữa khi chúng ta khuyên mà người ta không chấp nhận, bổn phận của mình đã làm hết sức rồi, tiếp nhận hay không là chuyện của người ta. Thí dụ khi khuyên người nhà hay thân bằng quyến thuộc, khuyên một lần hai lần nếu không nghe thì đừng khuyên nữa, nếu cứ tiếp tục thì có thể sanh ra xích mích, bất hòa. Nên làm thế nào? Nên tự mình hết lòng nỗ lực tu học và làm gương tốt cho mọi người xem. Hai ba năm sau gặp trở lại, khi họ nhìn thấy bạn tốt hơn họ, họ sẽ nghĩ chắc là vì bạn tu hành rất tốt nên mới được như vậy, [từ đó] ý niệm của họ sẽ thay đổi.

Ở Ðài Loan và Trung Quốc, tôi có rất nhiều bạn bè quen biết từ lúc mười mấy tuổi, lúc trước họ không tin Phật, khi thấy tôi học Phật đều nói: ‘Tại sao ông lại mê tín vậy?’. Hiện nay họ gặp tôi lại nói: ‘Ông đúng rồi’, nên bây giờ tôi biếu tặng kinh điển Phật giáo họ đều xem, như vậy là chúng ta đã làm gương tốt cho họ bắt chước theo.

Thế nên độ quyến thuộc họ hàng không thể độ liền được, mới bắt đầu khuyên không nghe thì qua vài năm sau khuyên lại có thể họ sẽ nghe. Người lớn tuổi kinh lịch nhiều, gặp khó khăn nhiều thì dễ nghe khuyên hơn. Người nhỏ tuổi còn sung sức, tâm háo thắng còn mạnh, không dễ tiếp nhận, chúng ta phải có nhẫn nại chờ đợi. 21-90-08

Hỏi: Xin hỏi người mất rồi thì nhất định phải ‘trả thọ sanh kinh’ không? Chuyện này có thật không?

Ðáp: Không có chuyện này, đây là tập tục truyền thuyết trong dân gian, trong kinh điển không có nói như vậy. Ðức Phật rất từ bi biết được thời mạt pháp ma đến để nhiễu loạn, chúng sanh không biết đối phó, nên dạy cho chúng ta ‘Tứ Y Pháp’ (Bốn nguyên tắc để noi theo). Thứ nhất ‘Y pháp bất y nhân’ (Noi theo pháp chứ không theo người). Pháp là kinh điển, kinh không nói như vậy thì chúng ta không tin. Nhưng kinh điển quá nhiều, chúng ta y theo bộ kinh nào? Lúc đức Phật Thích Ca còn tại thế, nếu người ta có thắc mắc thì có thể trực tiếp hỏi đức Phật. Ngài là thầy thuốc, chúng ta là bịnh nhân, ngài viết toa thuốc cho chúng ta, chúng ta dựa theo toa thuốc mà uống, uống thuốc rồi thì hết bịnh. Hiện nay Phật không còn, tất cả kinh điển nhiều như vậy đều là toa thuốc của ngài viết ra cho mọi người. Vì vậy phải biết mình bị bịnh gì, trong nhiều toa thuốc như vậy phải nên chọn thứ nào và bỏ thứ nào. Nhất định không được lấy hết [tất cả toa thuốc]; uống hết những thứ thuốc này thì nhất định phải chết chứ không còn cách nào khác.

Phật dạy chúng ta lựa chọn theo một phương châm:

‘Thời Chánh pháp, Giới Luật thành tựu;

Thời Tượng pháp, Thiền Ðịnh thành tựu;

Thời Mạt pháp, Tịnh Ðộ thành tựu..’

Chúng ta hôm nay sanh trong thời Mạt pháp thì nên theo pháp môn Tịnh Ðộ, đây là noi theo nguyên tắc mà đức Phật Thích Ca dạy cho chúng ta.

Tịnh Ðộ có năm kinh và một luận; cũng không cần phải học hết toàn bộ, noi theo một thứ thì được rồi. Trong sáu quyển này (năm quyển kinh và một quyển luận), quyển nào thích hợp với mình, khi đọc lên liền hoan hỷ, có thể hiểu được, y theo lời dạy mà làm theo. Ði sâu vào một môn (Nhất môn thâm nhập) thì có thể thành tựu. Ðừng nên chọn lấy quá nhiều, có câu nói ‘ăn nhiều không tiêu’. Chúng ta chọn một trong năm kinh một luận của Tịnh Tông, nhất định phải y theo lý luận và phương pháp trong kinh mà tu học thì mới có thể thành công. 21-90-09

Hỏi: Xin hỏi người ta mất rồi, linh hồn từ chỗ nào vãng sanh?

Ðáp: Trong kinh Phật nói có rất nhiều chỗ. Lúc lâm chung xét nghiệm kỹ càng nếu linh hồn từ dưới bàn chân đi ra thì người này đọa địa ngục. Làm sao khám nghiệm? Toàn thân đều lạnh hết nhưng dưới bàn chân còn ấm, đây là nói người này từ dưới bàn chân đi ra. Từ đầu gối đi ra là sanh vào đường ngạ quỷ; từ rốn đi ra là sanh vào đường súc sanh, từ ngực đi ra là sanh vào loài người, từ đảnh đầu đi ra là sanh vào cõi trời, vãng sanh về tây phương Cực Lạc cũng từ đảnh đầu đi ra. Nếu thiệt là sanh lên trời hoặc vãng sanh, thần thức đi rất nhanh. Phàm là sanh về cõi thiện thân thể nhất định phải mềm mại, không cứng. Có khi để cả hai tuần thân thể hãy còn mềm mại. 21-90-21

(Chú thích: tốt nhất đừng đụng thân thể người mất trong vòng 8 giờ (cho đến 12 giờ) đồng hồ sau khi người đó tắt thở, để tránh cho người mất cảm thấy đau đớn thêm và sanh tâm sân giận có thể hại họ)

Hỏi: Ðệ tử hy vọng mau mau vãng sanh về Cực Lạc thế giới, nhưng trên còn cha mẹ không yên tâm (không buông xả). Và sợ mình không để ý lại tạo thêm nghiệp tội, thật là lo sau này không thể đến Cực Lạc thế giới tu hành thành Phật, thừa nguyện tái lai (theo nguyện của mình để trở lại độ chúng sanh). Nghĩ đến vấn đề này thì rất buồn phiền, xin hỏi đệ tử nên xử lý thế nào?

Ðáp: Bạn nên dành ra thời giờ nhất định mỗi ngày để đọc tụng, nghe kinh, tốt nhất là phải dành trên 2 giờ đồng hồ; mỗi ngày đều như vậy không gián đoạn trong vòng nửa năm đến một năm thì cảnh giới của bạn sẽ xoay chuyển trở lại. Nói tóm lại là vì bạn không nhận thức và hiểu rõ giáo lý, nếu có thể hiểu rõ ràng, tín tâm thanh tịnh, tâm nguyện kiên cố thì tâm âu lo của bạn sẽ mất hết, bạn nhất định sẽ đạt được nguyện vọng. 21-90-22

Hỏi: Nếu một người không có tôn giáo tín ngưỡng gì hết, tâm địa lương thiện, xin hỏi có thể vãng sanh tây phương Cực Lạc thế giới không?

Ðáp: Tâm địa vô cùng hiền lương nhưng không tin có thế giới Tây phương Cực Lạc, không muốn đi về thế giới Cực Lạc thì không thể vãng sanh. Nếu lúc lâm chung chưa tắt thở nghe đuợc danh hiệu A Di Ðà Phật và nghe đến cõi Cực Lạc, sanh tâm hoan hỷ, phát nguyện vãng sanh thì nhất định sẽ được sanh. Học Phật một ngày cũng có thể vãng sanh. Tâm địa hiền lương là tiền vốn của người này. 21-90-24

Hỏi: Xin hỏi nghi thức thâu [nhặt] xá lợi nên làm như thế nào?

Ðáp: Thâu xá lợi không có nghi thức nhất định, quan trọng nhất là tâm kính trọng. Sự phân chia xá lợi cũng không nhất định, xá lợi có khi kết thành từ xương, từ thịt, từ máu, và có khi từ lông tóc. Hình dáng và màu sắc của xá lợi đều không giống nhau. Chuyện này không khó thấy được, có thể xem nhiều hơn.

Quan trọng nhất là chúng ta phải hiểu rõ nguyên nhân hình thành xá lợi là như thế nào? Tại sao lại có? Chương Gia đại sư nói với chúng ta xá lợi liên quan đến tâm thanh tịnh, nghĩa là liên quan đến định công. Tâm địa tán loạn nhất quyết không có xá lợi; tâm địa thanh tịnh, có thiền định công phu thì có thể có xá lợi.

Xá lợi nhiều hay ít, màu sắc không nhất định thì phải xem công phu sâu hay cạn. Lưu xá lợi hoặc lưu lại nhục thân thì cũng không thể chứng minh được sự thành tựu của sự tu hành, chỉ có thể nói là có công phu tu hành. Xá lợi cũng có liên quan đến nguyện lực; có rất nhiều người chân chánh tu hành thành công, họ không muốn lưu lại xá lợi, cũng không muốn lưu lại nhục thân, điều này liên quan đến nguyện lực vô cùng mật thiết. Phần đông lưu xá lợi cũng chỉ vì muốn lưu lại kỷ niệm cho đời sau và cũng là có tác dụng khuyến khích người học Phật. 21-90-38

Hỏi: Xin hỏi người kết hôn trở lại, tu hành rất có thành tựu có thể vãng sanh không? Không cho họ đến đạo tràng lễ lạy và giúp đỡ hộ niệm cho người mất đúng không? Có một vị pháp sư nói không được, như vậy đúng không?

Ðáp: Học Phật nhất định phải ghi nhớ một nguyên tắc quan trọng: ‘Y pháp bất y nhân’ (Y theo pháp chứ không y theo người). Người kết hôn trở lại tu hành rất có thành tựu có thể vãng sanh không? Năm quyển kinh và một luận là kinh điển chính của Tịnh tông, năm kinh một luận không có nói [người này] không được vãng sanh. Chúng ta cũng không thấy trong kinh điển không cho họ vào đạo tràng lễ Phật, nghe kinh, tu sám hối, hoặc là trợ niệm cho người mất.

Từ điểm này có thể biết được chư Phật Bồ Tát đều cho phép. Vị pháp sư này không cho, đạo tràng này không đến được. Có lẽ có pháp sư khác cho phép thì có thể đến đạo tràng khác. 21-90-40

4. NHÂN QUẢ

Hỏi: Một người làm về ngành buôn bán sỉ đồ đông lạnh nhưng không trực tiếp sát sanh. Vài năm trước còn kinh doanh nhỏ, ngày nay phát triển quy mô có đến 70, 80 người. Mọi người làm đều làm việc rất đàng hoàng, sự nghiệp này là kết quả của sự gắng sức hợp lực của mọi người. Nếu ngày nay không làm, sẽ có phần nhiều nhân công thất nghiệp cho nên không thể lập tức chấm dứt không làm. Ngày nay việc làm ăn này là do người khác quản lý chăm sóc dùm, người này bây giờ mở một tiệm hoa, bản thân sanh sống rất đơn giản, cũng làm rất nhiều việc thiện, người khác đều gọi ông ta là cư sĩ, xin hỏi ông có thể quy y Tam Bảo không?

Ðáp: Có thể! Quy nghĩa là quay trở về, quay về thì được ngay. Nhất định phải biết bất cứ phước báo của người nào cũng là do đời trước tu được. Quý vị đọc kỹ quyển ‘Liễu Phàm Tứ Huấn’ sẽ hiểu, từ trước đến bây giờ đông phương, tây phương đều như vậy, không có ngoại lệ. ‘Một miếng ăn một miếng uống đều có định trước’, ai định cho bạn vậy? Là tự mình định cho mình đó, không phải do người nào khác.

Trong kinh nói người ta trên thế gian này có hai thứ nghiệp báo: thứ nhất là ‘dẫn nghiệp’, dẫn dắt bạn đầu thai trong mười pháp giới. Dẫn nghiệp này tức là ngũ giới, thập thiện. Trong đời quá khứ tu ngũ giới thập thiện, tu rất tốt, nghiệp lực này dẫn dắt bạn đến thọ sanh trong loài người. Sanh vào nhà ai, ai làm cha mẹ của bạn là do duyên phận mà định. Cái duyên này rất phức tạp nhưng không ngoài bốn loại: báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Nếu là báo ân thì con bạn sẽ là con hiếu cháu ngoan, bản tánh bẩm sanh là tốt. Nếu là báo oán thì tương lai sẽ làm cho bạn nhà tan cửa nát, nó đến để báo thù. Nếu là đòi nợ thì bạn vui vẻ nuôi nấng, cung phụng nó, đến lớn nó sẽ chết. Tiền bạn nuôi cho nó lớn lên đều là tiền thiếu nó, nó đòi hết thì ra đi. Nếu là trả nợ thì nó đến chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc những thứ nhu yếu trong lúc tuổi già, nhưng nó không có tâm cung kính, tâm hiếu thuận. Nếu không phải là bốn thứ quan hệ này thì sẽ không sanh vào nhà bạn. Sau khi hiểu rõ rồi, chuyển biến những thứ nghiệp duyên này thành pháp duyên, như vậy là giác ngộ. Không kể là bạn sanh vào cõi này như thế nào, chúng ta đều khuyên bạn niệm Phật, đều khuyên bạn học Phật, khuyên bạn tiếp nhận lời dạy của Phật Bồ Tát, như vậy là chuyển biến nghiệp duyên từ đời trước thành pháp duyên, oán nợ hận thù hoàn toàn tiêu mất, đây là trí huệ chân thật.

Thứ hai là ‘mãn nghiệp’. Sau khi chúng ta được thân người, sự hưởng thụ trong đời này, những của cải tiền bạc có được trong đời này, công danh địa vị trong xã hội đều là từ quả báo của đời quá khứ tu thiện hoặc làm ác:

Bố thí tài vật là nhân, được giàu sang là quả báo;

Bố thí pháp là nhân, được thông minh trí huệ là quả báo;

Bố thí vô uý (giúp cho người khác không sợ hãi) là nhân, được khỏe mạnh sống lâu là quả báo.

Nếu làm đủ ba thứ bố thí này, quả báo của bạn sẽ vô cùng đầy đủ, viên mãn, bạn sẽ có giàu sang, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, và sống lâu. Tuy nhiên chúng ta thấy có nhiều người giàu sang nhưng không có thông minh, trí huệ, thậm chí chưa học đến tiểu học, nhưng cơ duyên của họ rất tốt, rất nhiều học sinh đại học và bác sĩ làm việc cho họ. Họ làm người chủ, nhân viên thuộc hạ đều ra sức làm việc cho họ, những nhân viên này đến là để báo ân, trả lại nợ đời trước thiếu họ. Vì vậy cho nên người ta tu thiện tích đức thì mãn nghiệp sẽ tốt.

Trong đời quá khứ tu không đủ thì đương nhiên mọi việc trong đời này đều khó khăn. Sau khi bạn hiểu được Phật pháp rồi nỗ lực hết lòng tu học vẫn còn kịp. Nếu thật hết lòng nỗ lực đi làm, ba năm sau quả báo sẽ hiện ra, vận mạng sẽ biến đổi. Nhất định là có vận mạng và vận mạng này cũng có thể sửa đổi. Nếu chúng ta có tâm thiện, hành động thiện, quả báo sẽ càng ngày càng tốt đẹp và càng thù thắng; nếu chúng ta có tâm không thiện, hành vi không thiện, tuy là có phước báo, phước báo này cũng bị tổn hao, thời gian hưởng phước rút ngắn lại, khi phước hưởng hết rồi thì ác nghiệp sẽ hiện ra. Chúng ta xem trong xã hội hiện nay có rất nhiều nhà giàu có, buôn bán không được mấy năm thì sập tiệm, đây là vì trong đời quá khứ có phước báo nhưng đời này không làm việc thiện nên phước báo rất dễ dàng hưởng hết. Những đạo lý này chúng ta phải hiểu rõ. 21-90-06

Chú thích: mười pháp giới gồm có: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, A tu la, Người, Súc sanh, Ngạ quỷ, và Ðịa ngục.

Hỏi: Cháu của con nghiên cứu về sanh vật, thường nuôi chuột con để làm thí nghiệm, cháu không có tín ngưỡng. Mỗi tháng cháu cho con 50 đồng, con đều lấy số tiền này làm công đức cho nó, xin hỏi như vậy được không?

Ðáp: Rất tốt! Bạn lấy 50 đồng này để làm công đức phóng sanh tốt nhất, bây giờ nó không biết nghiệp sát sanh rất nặng, tốt nhất là đừng làm ngành nghề này.

Trong sự sát sanh, đặc biệt tội phá thai là nặng hơn bất cứ tội khác, phá thai là giết người, oan oan tương báo phiền phức nhiều lắm. Tại sao đứa bé này lại biết nhà của bạn mà đến? [Vì] Nó có liên quan nhân quả với nhà bạn; trong kinh đức Phật nói có 4 loại quan hệ: báo ân, báo oán, đòi nợ, và trả nợ; nếu không có quan hệ này thì nó sẽ không đến. Nếu nó đến để báo ân mà bạn giết nó thì đời sau sẽ kết thành oán thù; nếu nó đến để báo thù mà bạn giết nó thì oán hận càng sâu đậm thêm. Vì vậy cho nên nhất định đừng bao giờ phá thai, đây là điều mà người học Phật không thể không biết. 21-90-10

Hỏi: Mỗi lúc gặp vấn đề khó khăn không biết giải quyết cách nào, dùng ‘mộc luân luân tướng’ nói trong kinh ‘Chiêm sát thiện ác nghiệp báo’ để đoán biết kết quả. Xin hỏi cách làm này và sự coi bói trong dân gian có gì khác biệt? Người học Phật có thể dùng không?

Ðáp: Việc ‘chiêm sát’ là do lòng đại từ đại bi của Phật, vì người đời ưa thích việc coi bói nên đức Phật cũng hằng thuận chúng sanh tùy hỷ công đức. Người học Phật chân chánh và người phát nguyện vãng sanh không cần hỏi những việc này, một lòng một dạ niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, những chuyện thế gian này cũng không cần để ý làm gì.

Việc mà nhà Phật gọi là ‘chiêm sát’ cần phải có công phu tu hành mới có cảm ứng. Vả lại ‘chiêm sát luân tướng’ phải biết đạo lý và phương pháp tu hành. Trong quyển ‘Quán Âm Cảm Ứng Khóa’, tức là Xăm Quán Âm, Ấn Quang đại sư trong phần tựa có nói: ‘Trước khi bạn cầu xăm Quán Âm phải nhất tâm chí thành niệm thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát một ngàn lần, sau đó mới xin xăm, xăm này mới linh’. Tại sao vậy? [Chí] thành thì sẽ linh [nghiệm]. Như thế nào mới là ‘thành’? Là nhất tâm chuyên chú, không có vọng niệm. Niệm 1000 lần Phật hiệu là đem tất cả vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước đều niệm cho mất hết, lúc bấy giờ là lúc tâm vô cùng chân thành, không một chút vọng niệm, bói quẻ sẽ linh.

Trong quyển ‘Liễu Phàm Tứ Huấn’ có nhắc đến việc vẽ bùa, vẽ bùa và niệm chú có cùng một đạo lý, tâm không thành thì không linh, tâm không thành là tâm có vọng niệm. Khi vẽ bùa từ lúc đặt bút xuống cho đến lúc vẽ xong, một niệm gì cũng không sanh, thì lá bùa này sẽ linh; nếu trong lúc vẽ bùa mà còn khởi tâm động niệm, lá bùa này sẽ không linh.

Cho nên người xưa nói: ‘Niệm kinh không bằng niệm chú, niệm chú không bằng niệm Phật’. Tại sao vậy? Phật hiệu chỉ có 6 chữ: ‘Nam mô A Di Ðà Phật’, trong câu này không xen tạp vọng niệm, tạp niệm thì dễ làm hơn. Trong lúc niệm bài chú quá dài có xen tạp một vọng niệm thì bài chú này sẽ không linh. Kinh còn dài hơn nữa, khi niệm hết một bộ kinh mà không xen vào một tạp niệm thì càng không dễ! Hiểu rõ đạo lý này mới biết sự thù thắng của pháp môn Niệm Phật. Nhưng phải hiểu rằng niệm Phật mà còn xen tạp vọng tưởng thì cũng không được, nhất định phải niệm đến khi vọng tưởng mất hết. 21-90-10

Hỏi: Trong quyển ‘Cảm Ứng Thiên’ có nói người không nhìn thấy quỷ, quỷ không nhìn thấy người, nhưng tại sao lại nói oan quỷ thường thường ở chung quanh để chờ đợi cơ hội? Dựa vào công án của Ngộ Ðạt Quốc sư, oan quỷ đi theo ông 10 đời, trong thời gian dài như vậy, xin hỏi những oan hồn này không phải đi thọ báo hay sao?

Ðáp: Việc này rất phức tạp. Ðương nhiên oan quỷ này có thể đi theo Ngộ Ðạt Quốc sư 10 đời để chờ đợi cơ hội trả thù, quỷ này cũng không phải quỷ bình thường; quỷ thường làm không được. Ðừng nói gì khác, nếu không có nhẫn nại thì làm không được, đợi không được, đi đầu thai mất rồi thì làm sao có thể đợi đến 10 đời? Từ đó có thể biết oán thù kết quá sâu thì tâm trả thù cũng rất mạnh, như thế mới có thể theo đuổi hoài được. Nếu tâm trả thù không mạnh như vậy, sau khi đợi một thời gian mà không có cơ hội báo thù nó sẽ đi mất, chuyện này cũng xảy ra rất nhiều.

Người và quỷ có thể gặp mặt là do cơ duyên đặc biệt, nếu không có cơ duyên đặc biệt này thì không thể gặp được. Thường người nhìn không thấy quỷ, quỷ cũng không nhìn thấy người. Nếu có thể nhìn thấy lẫn nhau thì sẽ sanh ra nhiễu loạn, nhưng trong tình trạng hoặc cơ duyên đặc biệt cũng có thể nhìn thấy. Có một vài bạn đồng tu đã nhìn thấy quỷ thần, hình trạng của quỷ thần này đều phù hợp với hình trạng diễn tả trong kinh điển. Ðây đều là thật, không phải giả. 21-90-14

Hỏi: Người làm ác bị đọa địa ngục A Tỳ vĩnh viễn không có ngày ra khỏi. Xin hỏi chúng sanh trong thế giới này có phải là càng ngày càng ít?

Ðáp: Vấn đề có bao nhiêu chúng sanh trên thế giới là thuộc về ảnh hưởng của cộng nghiệp. Nếu không có chung cộng nghiệp với chúng ta thì nhất quyết sẽ không đến thế gian này. Nhiều chúng sanh như vậy từ đâu đến? Là từ thế giới khác di dân đến. Chúng ta niệm Phật vãng sanh không phải là từ thế giới Sa Bà của đức Phật Thích Ca Mâu Ni di dân đến thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà hay sao? Phạm vi của sáu nẻo luân hồi rất lớn, “sáu nẻo” là chỉ tam thiên đại thiên thế giới trong nhà Phật. Tinh cầu trong tam thiên đại thiên thế giới quá nhiều, người ta giao thiệp qua lại lẫn nhau, không gian sanh hoạt rất lớn, không phải nhỏ bé như vầy. Vả lại đọa địa ngục A Tỳ không phải là vĩnh viễn không ra khỏi, chỉ là thời gian rất dài mà thôi, phải trải qua trăm ngàn kiếp, tội báo hết mới có thể ra khỏi, cho nên họ cũng có ngày sẽ thoát khỏi [địa ngục]. 21-90-16

Hỏi: Sau khi má con mất đi rồi, con đốt rất nhiều sách Phật, muốn [đốt] để má con đem đi, bây giờ mới biết tội đốt kinh sách rất nặng. Xin hỏi con phải làm thế nào?

Ðáp: Nếu bạn không biết ‘đốt kinh sách có tội’ thì bạn không có tội, chuyện này thuộc về lỗi lầm. Phải biết phân biệt giữa tội và lỗi, tội rất nặng, lỗi thì nhẹ. Nếu đã biết mà còn đốt thêm thì đó là tội. Trong Phật pháp cho dù phá hoại hình tướng của Phật nếu là vô ý phá hoại thì thuộc về lỗi; nếu cố ý phá hoại, có tâm sân hận mà phá hoại thì đó là tội, tội này nặng giống như tội làm thân Phật đổ máu, tội này là tội đọa địa ngục A Tỳ. 21-90-19

Hỏi: Có một cư sĩ bán thịt heo muốn đổi nghề nhưng không có tiền vốn, nếu không đổi nghề thì sợ tạo nghiệp. Xin hỏi phải nên khuyên ông ấy như thế nào?

Ðáp: Ông ấy đã biết bán thịt heo là tạo nghiệp, sự giác ngộ này rất quý. Tốt nhất đừng nên làm những ngành nghề mà phải sát sanh; hiện nay có rất nhiều người mở tiệm ăn đặc biệt là tiệm bán hải sản đều tạo nghiệp rất nặng. Nếu quan sát kỹ lưỡng thì thật có thể thấy quả báo của những người mở tiệm ăn này đều không tốt. Có vài bạn đồng tu nói với chúng tôi, những người mở tiệm ăn ở Hương Cảng bị quả báo vô cùng thê thảm, chuyện này đã có đăng trên báo, cũng thật có người thấy được rồi đổi sang kinh doanh ngành nghề khác. Nếu đổi tiệm ăn hải sản và tiệm ăn mặn thành tiệm ăn chay thì rất tốt, bạn phải khuyên người này nên suy nghĩ kỹ càng. 21-90-35

Hỏi: Có phải tất cả những vết thương trên thân thể đều do nghiệp báo chiêu cảm mà ra? Mỗi lúc con phát tâm niệm Phật hoặc niệm Phật được nhiếp tâm thì chướng ngại xảy ra rất nhiều. Bạn đồng tu dạy con phải nên đem công đức hồi hướng cho họ trước nhưng con sợ làm không được tốt thì [những gì mình hồi hướng] đều thành ra chi phiếu không lãnh được, sợ rắc rối sau này còn nhiều thêm. Xin hỏi phải nên làm thế nào?

Ðáp: Không hẳn là tất cả vết thương đều chiêu cảm từ nghiệp báo mà ra, ngoại thương có lúc do chúng ta không chú ý gây ra. Thí dụ như lúc đi chơi dã ngoại bị côn trùng cắn hoặc gai đâm bị thương, đó là do đi đường không coi chừng, chưa chắc là nhân quả báo ứng. Từ xưa Trung quốc coi trọng hiếu đạo, tất cả những tập quán sanh hoạt của mình phải cẩn thận để ý, không nên để thân thể bị thương rồi làm cho cha mẹ lo lắng, điều này rất đúng.

Còn về nghiệp chướng mỗi người [chúng ta] đều có rất nhiều oan gia chủ nợ, vì không phải gây ra trong kiếp này mà thôi, những gì gây ra từ kiếp trước đều quên hết; tuy chúng ta quên rồi nhưng đối phương không quên cho nên việc này rất phiền phức. Phương pháp Phật dạy rất hay, chúng ta tu hành không phải vì mình, vì mình thì là tự tư tự lợi, oan gia chủ nợ sẽ đến gây phiền phức. Nếu bạn tu hành cho tất cả chúng sanh, trong đó bao gồm oan gia chủ nợ, oan nghiệp tức khắc có thể dẹp trừ hết.

Tất cả hành vi đều vì chúng sanh, đoạn ác tu thiện không phải vì mình, phá mê khai ngộ đều không phải vì mình, thành Phật cũng không phải vì mình, cho đến sự sanh hoạt, ăn cơm, uống nước đều cũng không phải vì mình, ăn cơm uống nước là mình phải lợi dụng thân thể này để phục vụ cho tất cả chúng sanh. Chỉ cần có tâm này tức là đã ‘hồi hướng’, được như vậy thì hiệu quả sẽ rất rõ ràng. Nói một cách khác, chi phiếu ‘không đầu’ thì vẫn là tự tư ích kỷ. Tất cả đều vì chúng sanh mà không vì cá nhân mình, đó là tâm hồi hướng, đó là giải oan và tháo mở gút mắc, được như vậy sẽ không viết chi phiếu không lãnh được tiền.

Cho nên chúng ta phải mở rộng tâm lượng giống chư Phật Bồ Tát vậy; ‘tâm bao thái hư, lượng châu sa giới’ (tâm bao trùm hư không, lượng biến khắp thế giới), tâm lượng lớn thì phước lớn, tâm lượng nhỏ thì phước báo sẽ nhỏ, phải hiểu đạo lý này. 21-90-37

Hỏi: Con cái được sanh ra trong lúc lo sợ và dằng co bên bờ sanh tử, có lẽ sau này sẽ làm cho nó thích những cảnh tượng ma quỷ, khủng bố, và chém giết. Xin hỏi con có thể chuyển nghiệp này không?

Ðáp: Chuyển nghiệp hoàn toàn tùy thuộc vào mình, trước tiên phải chuyển nghiệp của mình trước rồi sau đó mới có thể giúp đỡ người thân trong nhà. Ðức Phật giúp đỡ chúng sanh không giới hạn trong một đời mà là đời đời kiếp kiếp. Trong đời này nghiệp lực của nó quá mạnh, tự mình không có năng lực để chuyển trở lại, chúng ta cũng vẫn phải giúp đỡ nó. Nhưng biết trong đời này nó sẽ không thành tựu thì vẫn còn đời sau, cho nên phải kiên nhẫn. Chúng ta đều tận tâm tận lực giúp đỡ thì mình đã làm tròn trách nhiệm và bổn phận. Nhưng không nên có bất cứ một kỳ vọng nào đối với nó. Nếu có kỳ vọng thì bạn sẽ có rất nhiều lo buồn, sẽ rất thất vọng. Ðiều này phải học chư Phật Bồ Tát, tâm của Phật Bồ Tát vĩnh viễn thanh tịnh, thật đúng là ‘quán sát nhập vi’ (quán sát đến mức vi tế, tinh tường) 21-90-40

Hỏi: So với ‘pháp giới quỷ’ thì tâm của ‘pháp giới người’ thanh tịnh hơn, xin hỏi tại sao loài quỷ có ngũ thông mà loài người không có?

Ðáp: Loài quỷ có ngũ thông là do [quả] báo mà được chứ không phải do tu [hành] mà được. Cõi trời có ngũ thông cũng từ [quả] báo mà được. Hai cõi người và súc sanh không có ngũ thông thì phải nhờ vào tu [hành] mà được. Tu đức và báo đức khác nhau, trong quyển Duyệt Vi Thảo Ðường Bút Ký của Kỷ Hiểu Lam và Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh có rất nhiều chuyện ngắn về vấn đề này. Thí dụ như hồ ly thuộc về súc sanh đạo, hồ ly muốn tu thành thân người phải trải qua 500 năm mới tu thành và có ngũ thông. Ngũ thông của loài súc sanh là nhờ tu mà được, có thể biến hóa cũng là nhờ tu mà được, chứ không phải có được từ quả báo. 21-90-42

Hỏi: Kinh Phật nói thọ mạng của loài người cách 100 năm thì giảm một tuổi, tại sao gần đây y học tiến bộ và thọ mạng của người ta lại tăng lên? Xin hỏi có phải đức Phật thuyết pháp [như vậy] có ý nghĩa gì khác?

Ðáp: Chúng ta không nên có hoài nghi đối với lời dạy của Phật. Nếu nhờ thuốc men mà thọ mạng của người có thể kéo dài ra thì định luật nhân quả bị lật đổ rồi. Phật nói thọ mạng của người cách 100 năm giảm một tuổi, đây là tuổi thọ trung bình, không phải là của một cá nhân nào đó. Nghiệp thiện ác của mỗi người tạo trong thời quá khứ không giống nhau vì vậy thọ mạng nghiệp báo cũng không giống nhau.

Phật nói sống lâu khoẻ mạnh là quả báo của sự bố thí vô uý trong đời quá khứ, nhờ vậy người đó được sống lâu khoẻ mạnh, là đạo lý như vậy; nhất định không liên quan đến thuốc men. Thuốc men chỉ là trợ duyên chứ không phải là nhân. Nếu mạng người đó không trường thọ, cho dù thuốc men trị liệu tốt cách mấy cũng không có biện pháp gì cả.

Trong lịch sử Trung quốc người rất nổi tiếng như Tần Thỉ Hoàng và Hán Võ Ðế đều muốn sống lâu, đi khắp nơi để kiếm ‘thuốc trường sinh’, đến lúc mạng hết đều phải chết. Cho nên sống lâu cùng những thứ thuốc men và cách giữ sức khoẻ này không có liên quan lẫn nhau. Cư sĩ Hứa Triết ở Tân Gia Ba năm nay 101 tuổi, không có lo lắng về việc giữ sức khoẻ, cũng không ăn bất cứ đồ bổ nào, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, chỉ ăn một vài món rau cải. Phần đông người ta cho những thứ này không có dinh dưỡng, nhưng bà lại rất khoẻ mạnh sống lâu, thọ mạng của bà là nhờ đời trước tu bố thí vô uý. Chỉ có Phật pháp giải thích vấn đề này một cách rõ ràng viên mãn.

Vì vậy nên y học tiến bộ chỉ có thể nói [giúp] bịnh tật của loài người ít đi một chút thôi, đây chỉ là ngoại duyên. Có phải thật là có thể giảm bớt? Không hẳn vậy, hiện nay nhiều nơi trên thế giới đều phát hiện ra nhiều thứ bịnh chưa có tên, nhà y khoa vẫn chưa tìm ra nguyên nhân. Cho nên nếu điều tra [và thống kê] thọ mạng của tất cả người trên thế giới, thọ mạng trung bình rất đúng với câu nói của người xưa: ‘Nhân sanh thất thập cổ lai hy’ (Từ xưa đến nay người sống đến 70 tuổi rất hiếm). Tính thọ mạng trung bình thì rất giống với điều Phật đã nói. 21-90-42

Hỏi: Nhà Phật nói công và quá (công đức và lỗi lầm) không thể bù trừ được, xin hỏi phải nói như thế nào mới viên mãn? Ðối với người tu hành có những khải thị gì?

Ðáp: Công đức và lỗi lầm thật là không thể bù trừ được; chúng ta dùng việc ‘trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu’ để làm thí dụ; nhân của dưa không tốt, tượng trưng cho việc ‘ác’, đậu tượng trưng cho ‘thiện’. Chúng ta gieo hột giống dưa xuống đất rồi mới biết là sai lầm. Hiện nay chúng ta trồng rất nhiều đậu, dưa có thể biến thành đậu không? Không thể! Hột dưa sẽ mọc thành dưa, hột đậu sẽ thành đậu. Công quá không thể bù trừ lẫn nhau giải thích như vậy đó. Không phải chúng ta trồng nhiều đậu thì dưa không mọc thành dưa nữa, sau cùng chắc chắn dưa cũng sẽ mọc thành dưa.

Vô số kiếp từ trước đến nay, nghiệp nhân thiện và ác của chúng ta sẽ không thế nào bù trừ lẫn nhau. Nhưng muốn nhân biến thành quả thì phải có duyên, vì vậy nhà Phật mới nói ‘duyên sanh’. [Thí dụ] ác nhân của tôi rất nhiều, tôi không muốn kết thành quả báo ác thì đem ác duyên cắt đứt hết. Thí dụ việc trồng dưa, tôi không muốn mọc thành dưa, tôi bỏ hột giống dưa vào tách trà rồi đậy lại, nó không có đất, không khí, và nước, trải qua 100 năm thì nó cũng không mọc thành dưa, như vậy gọi là ‘không có duyên’. Nếu bạn đem hột dưa rải vô đất mảnh đất phì nhiêu có đầy đủ các thứ duyên: nước, phân bón, ánh sáng, thì nó nhất định sẽ sanh trưởng rất mau. Do đó nếu chúng ta muốn thành tựu việc thiện nhất định phải tu thiện duyên; muốn đoạn việc ác, đem ác duyên cắt đứt thì hột giống ‘ác’ sẽ không sanh trưởng và kết trái. 21-90-50

5. SANH HOẠT

Hỏi: Xin pháp sư khai thị ý nghĩa của tháng bảy âm lịch?

Ðáp: Ðây là phong tục tập quán của dân gian. Trong Phật pháp, tháng bảy âm lịch có một ý nghĩa đặc biệt, đó là việc an cư kiết hạ. Lúc đức Thế tôn còn tại thế, khu vực hoằng pháp lợi sanh phần đông đều ở dọc theo bờ sông Hằng. Mùa hè ở Ấn độ là mùa mưa, ngày nào cũng mưa, tăng đoàn đi khất thực rất bất tiện. Cho nên trong ba tháng hè này các vị xuất gia không đi khất thực và có thể nhận sự cúng dường của cư sĩ. Mỗi năm vào dịp an cư kiết hạ, các vị xuất gia quay về thân cận Thế tôn, để được dạy bảo và huấn luyện thêm. Cũng giống như nhân viên của nhiều công ty ở Mỹ, từ nhân viên đến quản lý, mỗi năm nhất định có từ hai đến ba lần đi tu nghiệp để học hỏi thêm những kỹ thuật mới. Nếu họ không có tu nghiệp thêm thì sẽ [trở nên lạc hậu và] bị đào thải. Cho nên ba tháng an cư kiết hạ trong nhà Phật cũng thuộc về sự tu nghiệp, tập hợp tất cả những bạn đồng học đang đi hoằng pháp lợi sanh từ khắp nơi trở về để cho họ mỗi năm đều có cơ hội thân cận thầy giáo, nâng cao cảnh giới. 21-90-01

Hỏi: Thế gian pháp là ‘quá nhãn vân yên’ (chớp mắt tan thành mây khói), chỉ cầu có một công việc ổn định, thâu nhập ổn định, không có yêu cầu gì cao xa, xin hỏi cách làm như vậy đúng không?

Ðáp: Rất đúng, vô cùng chính xác. Người chân chánh giác ngộ biết một người trong đời này chỉ cần đủ ăn đủ mặc là được rồi, cần gì phải làm khổ cực như vậy? Ở Nam Dương chúng ta thấy người Mã Lai làm một ngày nghỉ hai ngày, làm một ngày đủ ăn 3 ngày thì họ không làm thêm nữa, họ rất biết hưởng phước. Lại nhìn một số người cố gắng kiếm tiền rồi để dành, làm đến chết kiếm không ít tiền nhưng không hưởng phước qua ngày nào hết, bạn nói như vậy có uổng hay không? Không biết những số tiền đó sau này để lại cho ai dùng, thiệt là không thông minh bằng người Mã Lai. Cho nên lúc trước tôi cũng đã khuyên các bạn đồng tu nên hết lòng nỗ lực làm việc một năm có thể nghỉ việc hai năm, hai năm này nên học Phật cho đàng hoàng. Phương pháp này tốt, người thật thông minh chịu làm, tất cả đều buông xuống, hết lòng nỗ lực tu tập hai năm, quyết định sẽ thành công. 21-90-07

Hỏi: Từ khi đọc ‘Vãng Sanh Luận’ xong, không muốn tiếp xúc với người ngoài và nói chuyện tào lao, chỉ muốn ở nhà tịnh tu niệm Phật, xin hỏi như vậy có phải là quá chấp trước hay không? Làm thế nào mới hằng thuận đại chúng?

Ðáp: Người sơ học chấp trước [như vậy] có ích lợi, tại vì công phu của mình chưa được đắc lực, phải nên chú trọng tu trì. Nhà Nho có nói: ‘Trạch thiện cố chấp’ (chọn việc thiện rồi giữ vững việc thiện ấy) cho nên người mới học phải nên chấp trước [như vậy]. Ðến lúc nào mới hằng thuận theo đại chúng? Ðến lúc mình đã có định lực, không bị ngoại duyên ảnh hưởng mê hoặc thì có thể hằng thuận theo chúng sanh. Nếu nhìn thấy sự dụ dỗ của ngũ dục lục trần mà vẫn còn khởi tâm động niệm, bạn hằng thuận theo thì sẽ tạo nghiệp. Từ xưa đến nay những việc này cũng có rất nhiều.

Năm xưa khi tôi học Giáo, thầy Lý hạn chế chúng tôi chưa đến 40 tuổi thì nhất quyết không thể ra ngoài giảng kinh. Trước 40 tuổi giảng kinh thì chỉ luyện tập ở Liên Xã Ðài Trung, Ðài Trung Từ Quang Thư Viện, là vì sợ chúng tôi chịu không nổi sự dụ dỗ ở bên ngoài rồi đọa lạc. Ðây là sự thương yêu chăm sóc của thầy đối với học trò, chúng ta phải hiểu đạo lý này. Tự mình có thể chịu được sự thử thách này không? Nếu chịu không được thì bảo thủ và cố chấp một chút mới tốt. 21-90-10

No comments: