Giáo dục 2009 - chưa ra khỏi “vùng trũng tư duy”
Tấm màn thanh thiên của năm 2009 sắp khép lại
Ngành giáo dục đã tự chọn 10 sự kiện nổi bật xoay quanh hai chủ đề: Đổi mới cơ chế tài chính và đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng GD. Nói theo khái niệm của kiểm định chất lượng, đó là hoạt động "đánh giá trong" (tự đánh giá). Nhưng vẫn còn một cách đánh giá khác- "đánh giá ngoài" của xã hội, cũng dựa trên những đặc thù năm học, và những chủ trương lớn nhất của GD. Có thế, diện mạo GD mới tỏ tường.
Năm 2009 khá thuận lợi với ngành, bởi có 3 sự trợ lực lớn: Bộ Chính trị ra Thông báo kết luận, chỉ đạo phương hướng phát triển GD đến năm 2020; Quốc hội thông qua chủ trương định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong GD; và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GD.
Sự trợ lực mạnh mẽ đó, cả hướng đạo tinh thần lẫn nguồn lực tài chính to lớn, liệu có làm mạnh mẽ hơn nội lực của ngành sau quá nhiều bất ổn?
GD phổ thông: Diện mạo lỗi thời không mấy đổi thay
Công bằng mà nói, đây cũng là năm GD và ĐT nói chung, trong đó GD phổ thông nói riêng có nhiều nỗ lực mong muốn xoay chuyển tình thế. Cứ nhìn trên đầu việc, và con số thống kê sự kiện nổi bật của năm thì rõ. Nhưng cho dù có sự cố gắng của thầy trò các nhà trường, sự vượt khó và tận tụy của hàng trăm, hàng ngàn thầy và trò những vùng khó khăn của Tổ quốc, diện mạo cùng chất lượng GD năm 2009 không mấy đổi thay. Vì sao?
Vì bản chất tổ chức và hoạt động dạy- học của nền GD vẫn ở trạng thái lỗi thời, lạc hậu mang tính truyền thụ một chiều: Thầy đọc- trò chép. Cho dù mới đây ngành có một động thái tích cực: Tổng kết chương trình cấp THPT, rà soát CT, SGK các cấp học khác để chuẩn bị đổi mới CT, SGK năm 2015.
Vì cơ chế vận hành và quản lý GD vẫn là cơ chế quản lý tập trung, ban phát xin- cho. Các trường không có quyền tự chủ về cả nhân sự, tổ chức và tài chính.
Vì hoạt động đánh giá, thi cử của ngành, trừ bậc tiểu học bước đầu có sự thay đổi. Một số môn học đánh giá học sinh bằng nhận xét quá trình (định tính) thay cho cách đánh giá theo định lượng (điểm số) trước đây- một chủ trương đúng đắn, phù hợp tâm lý lứa tuổi học đường. Còn lại hoạt động đánh giá, thi cử, thi đua của ngành phổ biến vẫn theo kiểu cũ, chỉ có tác dụng kích thích các địa phương chạy theo chất lượng một cách hình thức.
Chính vì vậy, cuộc vận động "Hai không" chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong GD, trừ năm đầu tiên, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông khá sát với chất lượng (hơn 65%), ngay năm sau, và cho đến năm 2009 này, kết quả tốt nghiệp của cả nước lại tiếp tục tăng cao vọt (hơn 80%), trong khi các điều kiện bảo đảm chất lượng không cải thiện đáng kể. Tâm lý quá nặng thành tích của ngành đã tự "vô hiệu hóa" ý nghĩa và hiệu quả của cuộc vận động.
Mang trong mình những nhược điểm lớn cố hữu nhưng nếu chỉ chạy theo sửa chữa chắp vá kiểu "sai đâu sửa đó", như hội thảo "Triển khai đổi mới phương pháp dạy học 4 môn: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý và Giáo dục công dân", cũng được lựa chọn là 1 trong 10 sự kiện nổi bật nhất của năm, chắc chắn ngành GD không thể thay đổi được tình thế, không thể chữa khỏi căn bệnh lỗi thời mãn tính hiện nay.
Đại học: "Đổi mới cơ chế quản lý" bằng tư duy...cũ
Với ngành ĐH, năm 2009, "Đổi mới cơ chế quản lý GD" được coi là chủ trương lớn nhất mang tính đột phá, hy vọng cải thiện sự bất cập và yếu kém của chất lượng đào tạo.
Bản chất của chủ trương này mang 2 nội dung cơ bản gắn bó hữu cơ: 1)Tăng quyền tự chủ, gắn với trách nhiệm xã hội của các trường. 2) Xóa bỏ cơ chế xin- cho của Bộ chủ quản.
Tuy nhiên muốn tự chủ tốt, các trường phải có một thiết chế quản lý phù hợp đồng bộ với mục tiêu đổi mới- đó là hội đồng trường- tổ chức quyền lực cao nhất trong nhà trường, đại diện cho lợi ích cộng đồng, giúp các trường thực hiện tự chủ, và chịu trách nhiệm xã hội một cách công khai, minh bạch, đúng luật định.
Với thiết chế hội đồng trường, bản thân hiệu trưởng các trường chỉ là một thành viên. Với việc xóa bỏ cơ chế xin- cho, quản lý của Bộ GD phải "căn" đúng chức năng quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách, định hướng, không còn quyền lợi ban phát, ân huệ kiểu "con khóc, bố cho ti".
Phải chăng, vì thiết chế đó thực chất đã đụng chạm tới lợi ích cục bộ của cả hai phía- quản lý các trường và Bộ chủ quản, mà hội đồng trường, một nội dung cơ bản của đổi mới cơ chế quản lý, rất phổ biến ở GD ĐH các nước nhưng ở ta, lại rơi vào trạng thái "lý thuyết màu xám, và cây đời cũng xám luôn"?
Đến nay, vẫn chỉ vỏn vẹn trên dưới chục trường/ 120 trường ĐH có hội đồng trường. Nhiều hội đồng trường "ngắc ngoải", không có sức mạnh của cơ quan quyền lực đúng nghĩa. Điều đó có nghĩa, sự tự chủ gắn với trách nhiệm xã hội của các trường còn lâu mới minh bạch được, cho dù ngành chủ trương sẽ "3 công khai"(công khai tài chính, công khai điều kiện đào tạo và công khai chất lượng).
Đổi mới cơ chế quản lý GD cũng không có nghĩa là "buông lỏng" cho các trường tự tung tự tác. Tiếc thay, năm 2009, thực trạng này đã xảy ra khá phổ biến và rất khó hiểu, ở lĩnh vực đáng phải quản lý chặt chẽ nhất- loại hình trường tư thục.
Chưa bao giờ, các trường ĐH tư thục nở như nấm sau mưa. Báo cáo tổng kết của Bộ GD (tháng 8/2009) phải thừa nhận: "Quy mô đào tạo ĐH, CĐ tăng đáng kể trong 10 năm qua, đặc biệt số lượng trường tư thục phát triển nhanh chóng, nhưng năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo một số trường còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập...".
Cũng báo cáo này cho biết: "Năm 1987 cả nước có 101 trường ĐH, CĐ (63 trường ĐH, 38 trường CĐ), đến năm 2009, có 376 trường ĐH, CĐ, tăng gấp 3,7 lần (150 trường ĐH, gấp 2,4 lần; và 226 trường CĐ, gấp 6 lần). Tổng số sinh viên tăng từ 133.136 lên 1.179.499 (gấp gần 13 lần). Số giảng viên tăng từ 20.212 lến 61.190 (gấp 3 lần)... Trong khi đó, phương pháp quản lý của Bộ GD đối với các trường không thay đổi: Quản lý tập trung...khả năng kiểm soát, đánh giá chất lượng đào tạo... ngày càng khó khăn..."
Đỉnh cao của sự lỏng lẻo trong quản lý là "hiện tượng" Trường ĐH tư thục Phan Thiết, thiếu quá nhiều các điều kiện vật chất, đội ngũ...bảo đảm chất lượng, nhưng lại tuyển sinh quá chỉ tiêu... khiến dư luận xã hội cực kỳ bức xúc. Những nhà giáo có lương tri không thể không bất bình.
GS Nguyễn Ngọc Trân, nguyên đại biểu Quốc hội phải đặt câu hỏi: "Quản lý ĐH rơi "tự do" đến bao giờ"? GS Hoàng Tụy gay gắt: "Tôi xin được nói thẳng, GD sa sút không phải vì thiếu tiền mà vì quản lý kém"...v.v...và .v..v
Mong muốn đổi mới cơ chế quản lý, nhưng tư duy quản lý xơ cứng lại luôn "ám" mỗi chủ trương. Như việc phân cấp quản lý mới đây cho các sở GD và ĐT tham gia giám sát chất lượng các trường ĐH, một kiểu quản lý "cháo" chấm "cơm". Không thể kiểm soát nổi thì thay thế cho một cơ chế xin- cho cấp cao hơn bằng một cơ chế xin- cho cấp trung gian, thấp hơn.
Mong muốn đổi mới để lấy lại chữ "tín" với xã hội, nhưng năm 2009 GD chưa ra khỏi "vùng trũng của tư duy". Nó là hệ lụy tất yếu của cơ chế quản lý xã hội nhiều khuyết tật; của một nền GD thiếu hẳn sự định hướng, định vị của lý luận nghiên cứu khoa học GD; và thiếu cả tính minh triết - GD chỉ vì lợi ích tiến thân của người làm GD.
Tiềm năng trí tuệ Việt
Cho dù thế, trí tuệ Việt vẫn là một điều đáng tự hào và nhiều kỳ vọng. Năm 2009, học sinh giỏi VN vẫn giữ được độ đồng đều về chất lượng khi dự thi các Olimpic quốc tế.
Và năm 2009 cũng là năm trí tuệ Việt, gốc Việt nở bừng trên trường quốc tế. Một GS trẻ tuổi Ngô Bảo Châu, được Tạp chí Time xếp công trình chứng minh Bổ đề cơ bản chương trình Langlands là một trong 10 phát minh khoa học tiêu biểu nhất năm 2009, ứng viên sáng giá cho giải thưởng toán học danh giá nhất trên thế giới - giải thưởng Fields.
Một Philip Roesler, 36 tuổi, người Đức gốc Việt, được chọn làm Bộ trưởng Y tế Đức, cũng là bộ trưởng trẻ nhất của nước Đức từ trước đến nay. Hay một GS Vicky Thảo D. Nguyễn, người Mỹ gốc Việt duy nhất trong danh sách 100 nhà khoa học trẻ được nhận giải thưởng của Tổng thống Mỹ B. Obama trong năm 2009. Một Yến Lê Espiritu, nữ GS- TS Xã hội học người Việt của ĐH UC San Diego (Mỹ) được trao tặng giải thưởng giảng dạy cao học xuất sắc. Một Trần Nguyên Phan, sinh viên xuất sắc ở Nga, được chọn gặp tổng thống Nga...
Rõ ràng trí tuệ Việt là một tiềm năng không nhỏ. Nếu biết khai thác, tiềm năng ấy sẽ biến thành sức mạnh lớn cho sự thăng tiến của dân tộc.
Nhưng muốn thế, cơ chế quản lý xã hội phải biết tự "sửa mình", làm sạch ung nhọt với nền tảng pháp luật công bằng, minh bạch.
GD phải đổi thay quyết liệt, bằng một cuộc cải cách cơ bản, triệt để.
Và tính minh triết của GD phải thật sự rõ ràng: Chỉ lợi ích của trẻ em là tối thượng. Và cũng chỉ điều đó, mới mang đến cho GD sự vinh danh sang trọng:"Nghề cao quý".
No comments:
Post a Comment