Tiêu chuẩn giáo sư ở Việt Nam có nhiều khác biệt?
Ở nước ta, tiêu chuẩn NCKH chưa được xem xét là quan trọng khi xét phong GS/PGS.
Hiện nay, chúng ta có hơn 8.000 GS/PGS. Nếu theo tiêu chuẩn nước ngoài (mỗi GS/PGS phải công bố ít nhất 1 bài báo khoa học) thì chúng ta phải có hơn 8.000 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế. Nhưng trong thực tế, số ấn phẩm khoa học xuất phát từ Việt Nam trên các tập san khoa học quốc tế hiện nay là khoảng 1.000 bài! Con số này chỉ bằng 1/3 Thái Lan và 1/6 Singapore.
Bất bình thường...
Trong bài trước, tôi có nhận xét rằng Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước (HĐCDGSNN) hình như chưa quan tâm đúng mức đến các tiêu chuẩn về NCKH khi xét phong hay đề bạt chức danh GS/PGS, và điều này là một điều bất bình thường. Bất bình thường vì hầu như khắp nơi trên thế giới, các ĐH đều dựa vào thành tựu NCKH và thành tích giảng dạy làm 2 tiêu chuẩn chính để đề bạt chức danh khoa bảng. Thành tựu NCKH được phản ảnh qua số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học mà ứng viên đã công bố trên các tập san quốc tế (gọi tắt là "công bố quốc tế").
Có không ít trường hợp, ứng viên được phong hàm |
Về công bố quốc tế, cần phải nhấn mạnh sự khác biệt giữa (a) các bài báo đăng trong các hội nghị (gọi là conference proceedings hay tương tự), và (b) những bài báo công bố trên các tập san khoa học có bình duyệt nghiêm chỉnh (còn gọi là peer-reviewed journal). Khi nói đến "công bố quốc tế", người ta chỉ nói đến những bài báo ở dạng (b). Cũng có ngành khoa học xem những bài báo ở dạng (a) là "công bố quốc tế" nhưng phải là các hội nghị lớn có uy tín, có bình duyệt hẳn hoi, và được cộng đồng của ngành đó công nhận. Trong ngành y, tất cả các bài báo trong các hội nghị -- dù lớn hay nhỏ -- đều không bao giờ được xem là "công bố quốc tế".
Nhưng có dấu hiệu cho thấy ở Việt Nam, không ít trường hợp mà ứng viên được phong hàm GS/PGS chỉ có công bố ở dạng (a) và chưa bao giờ công bố một bài báo khoa học nào trên các tập san quốc tế. Theo tôi, chỉ dựa vào những bài báo trong các hội nghị, dù là hội nghị quốc tế mà không có bình duyệt, để làm cơ sở cho việc phong hàm khoa bảng là một điều bất bình thường.
Vậy câu hỏi đặt ra là ở các nước Âu Mỹ người ta làm như thế nào? Ở các nước như Mỹ hay Úc, muốn đề bạt vào các chức vụ khoa bảng như GS/PGS, ứng viên phải hội đủ một số điều kiện và tiêu chuẩn. Những điều kiện và tiêu chuẩn này thường không cố định hay cụ thể, mà còn tùy thuộc vào từng địa phương, đẳng cấp của trường ĐH, và bộ môn khoa học. Chẳng hạn như mặc dù điều kiện đầu tiên là ứng viên phải có văn bằng tiến sĩ, nhưng trong các bộ môn như luật khoa, kinh tế hay y khoa, có khi ứng viên chỉ có bằng thạc sĩ (thậm chí cử nhân) cũng có thể xin đề bạt vào các chức vụ GS/PGS.
Điều kiện thứ hai là thời gian. Thông thường, ứng viên thường phải trải qua ít nhất hai năm nghiên cứu sau khi xong học vị tiến sĩ để có thể xin đề bạt lên chức vụ giảng sư (hay "assistant professor"). Thời gian cần thiết để một assistant professor được đề bạt lên PGS thường là ít nhất 3 năm và cao nhất là 6 năm. Từ PGS lên GS, thời gian cần thiết ít nhất là 5 năm. Những con số trên đây chỉ là những qui định rất chung, bởi vì trong thực tế, nó còn tùy thuộc vào từng cá nhân ứng viên và nhu cầu của bộ môn khoa học....
Và bình thường
Chức danh GS như đề cập trong bài trước dành cho những người làm công việc giảng dạy ĐH và NCKH. Do đó, các ĐH có chính sách công nhận cống hiến của nhiều thành phần khác nhau, và họ đề ra 3 ngạch để đề bạt chức danh GS: Ngạch nghiên cứu (research track), ngạch giảng dạy (teaching track), và ngạch hỗn hợp giữa nghiên cứu và giảng dạy.
Việc phân ngạch rất quan trọng, vì liên quan đến việc xác định tiêu chuẩn đề bạt. Chẳng hạn như những người xin đề bạt qua ngạch giảng dạy thì tiêu chuẩn về NCKH sẽ khác (thấp hơn) với tiêu chuẩn dành cho những người chuyên làm NCKH và ít giảng dạy.
Về tiêu chuẩn "cụ thể", đề bạt GS/PGS và giảng sư, các ĐH thường dựa vào 4 tiêu chuẩn chính: Thành tích hoạt động khoa học, giảng dạy và quản lí bộ môn, khả năng thu hút tài trợ cho nghiên cứu, và hoạt động cộng đồng.
Thành tích hoạt động khoa học được đánh giá bằng các tiêu chí như số lượng và chất lượng bài báo khoa học đã công bố trên các tập san khoa học quốc tế, số lượng bằng phát minh (patents of invention), uy danh và sự công nhận của giới chuyên môn trong ngành. Thông thường, những con số được "hiểu ngầm" là assistant professor phải có từ 5 bài báo trở lên, PGS ít nhất là 20, và GS thì ít nhất là 50.
Chất lượng bài báo thường được đánh giá bằng hệ số ảnh hưởng (impact factor) của tập san mà bài báo khoa học được công bố. Cho nên một cách đánh giá chất lượng khác là tính số lần các nhà khoa học khác trích dẫn bài báo (citations). Số lần trích dẫn nhiều cũng có nghĩa là công trình nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong chuyên ngành. Nếu ứng viên công bố toàn những bài báo mà không ai trích dẫn thì giá trị của chúng cũng chẳng cao hơn con số 0 (vô dụng) bao nhiêu !
Chỉ số H (H index), vốn hiện được sử dụng để đánh giá thành tựu NCKH của một cá nhân. Chỉ số H còn được sử dụng rộng rãi trong việc xét đề bạt và cung cấp tài trợ cho NCKH. Theo các chuyên gia, một PGS phải có chỉ số H khoảng 12, và một GS nên có chỉ số H từ 18 trở lên.
Khả năng lãnh đạo ngành cũng quan trọng. Một GS phải là một nhà lãnh đạo khoa học về một lĩnh vực hẹp nào đó được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận.
Tiêu chuẩn về giảng dạy thì khó đánh giá hơn, bởi vì người đánh giá chính là sinh viên, và rất ít khi các trường ĐH tổ chức những cuộc bình bầu thầy cô qua hỏi ý kiến sinh viên một cách có hệ thống! Nhưng cũng có thể đánh giá qua việc ứng viên khuyến khích sinh viên đào sâu suy nghĩ, hay đóng vai trò hàng đầu trong việc phát triển khóa học trong phạm vi trường ĐH hay quốc gia.
Tiêu chuẩn giảng dạy còn liên quan đến thành tựu đào tạo nghiên cứu sinh cấp thạc sĩ và tiến sĩ. Nhưng không chỉ đơn thuần là con số, mà cần phải trình bày dữ liệu về thành tựu của những nghiên cứu sinh này hiện giờ ở đâu, làm gì, thành đạt gì trong sự nghiệp. Ngoài ra, ứng viên còn phải trình bày số nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (postdoc) đến "đầu quân" làm việc cho nhóm của mình, và sự nghiệp của các postdoc này hiện nay như thế nào.
Thu hút tài trợ cho nghiên cứu có liên quan mật thiết với thành tích hoạt động khoa học. Thông thường một PGS thường chủ trì những công trình nghiên cứu lên đến hàng trăm ngàn đô-la, và một GS thường chủ trì những công trình hàng triệu đô-la. Tuy nhiên, số tiền thu hút được còn tùy thuộc vào ngành khoa học. Đối với những ngành khoa học lí thuyết thì số tiền tài trợ không thể "dồi dào" như các ngành khoa học thực nghiệm.
GSĐH không nên chỉ ngồi trong tháp ngà, mà còn phải đóng góp vào các hoạt động cộng đồng. Cống hiến cho chuyên ngành cũng là một nhiệm vụ của GS. Do đó, ứng viên GS/PGS cần phải trình bày bằng chứng về những đóng góp của mình cho chuyên ngành qua những việc làm như bình duyệt bài báo khoa học cho các tập san và phục vụ trong Ban biên tập tập san.
Chúng ta cần phải có một hệ thống đánh giá thành tựu NCKH và |
Để được đề bạt lên chức "assistant professor", ứng viên phải có công bố ít nhất là 5 bài báo khoa học mà ứng viên là tác giả số một của bài báo. Ở đây là đề cập đến những bài báo trên các tập san có cơ chế bình duyệt nghiêm chỉnh (còn gọi là peer-review system), chứ không phải những bài báo trên các báo chí trong nước hay của trường, càng không phải là những tạp chí phổ thông dành cho công chúng. Ngoài ra, ứng viên còn phải chứng minh mình có khả năng giảng dạy, có khả năng phát triển course học hữu hiệu cho khoa.
Để được đề bạt lên chức danh PGS, ứng viên cần phải có ít nhất 20 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế (có bình duyệt), và ít nhất là 30% trong số này phải trên các tập san số một trong ngành. Về giảng dạy, ứng viên phải chứng tỏ mình có khả năng giảng dạy, và đã đào tạo thành công sinh viên thạc sĩ và ít nhất là đào tạo thành công một tiến sĩ.
Từ PGS lên GS là một bước nhảy vọt tương đối lớn, cho nên tiêu chuẩn cũng càng cao. Tuổi đời trung bình của một GS là 55 ; rất ít ai được đề bạt chức danh GS trước độ tuổi 40. Về tiêu chuẩn nghiên cứu bất thành văn, thông thường các ứng viên phải có ít nhất là 50 bài báo khoa học, và trong số này ít nhất là 50% phải trên các tập san số một trong ngành. Chỉ số H trung bình của một GS các trường ĐH lớn bên Mỹ thường là 20 trở lên. Số lượng bài báo phải đều hàng năm, chứ không phải bất thường (điều này chứng tỏ ứng viên có khả năng hoạt động khoa học về lâu về dài)!
Ứng viên GS phải đào tạo thành công ít nhất là 3 tiến sĩ trong thời gian giữ chức PGS. Ứng viên phải chứng minh đã từng chủ trì các công trình nghiên cứu lớn. Ngoài các hoạt động cộng đồng và cố vấn cho chính phủ, quan trọng hơn hết ứng viên phải chứng minh mình có uy danh trên trường quốc tế. Nói cách khác, ứng viên phải từng được mời giảng dạy tại các ĐH khác, được mời làm chủ tọa (chair) các hội nghị chuyên môn hay được mời làm phát biểu viên chính (keynote speaker) trong các hội nghị chuyên ngành, được bổ nhiệm vào ban biên tập của các tập san khoa học quốc tế, và được mời bình duyệt các dự án NCKH.
Tiêu chuẩn GS ở VN: Có nhiều khác biệt
Đối chiếu các điều kiện và tiêu chuẩn trên đây với các tiêu chuẩn đề bạt GS ở nước ta, ai cũng thấy có nhiều khác biệt, nhất các tiêu chuẩn liên quan đến hoạt động NCKH. Trong một bài phỏng vấn đăng trên VietNamNet, GS Đỗ Trần Cát cho biết : "Mỗi ứng viên cho chức danh GS phải có 2 điểm - tương đương với hai công trình - đăng trong các tạp chí uy tín", và mỗi ngành chỉ có hai "tạp chí uy tín" ở trong nước, hiểu theo nghĩa "nếu đăng ở đấy thì nó khó, chất lượng cao hơn. Còn việc chọn đâu là hai tạp chí uy tín của mỗi ngành thì do hội đồng ngành đề xuất, hội đồng thường trực sẽ thông qua. Còn các bài báo đăng ở tạp chí khoa học ngoài nước tất nhiên là không hạn chế rồi". Tôi nghĩ tiêu chuẩn này quá ... thấp cho một GS. Ngay cả tiêu chuẩn "ít nhất 12 điểm công trình" cho một GS cũng còn quá thấp.
Đành rằng chúng ta không thể áp dụng các tiêu chuẩn của các trường ĐH lớn ở các nước tiên tiến vào hệ thống bình duyệt chức danh khoa bảng ở Việt Nam, nhưng chúng ta cần phải có một hệ thống đánh giá thành tựu NCKH và giảng dạy khách quan hơn và theo chuẩn mực quốc tế.
Chúng ta đang có ước vọng nâng cao một số ĐH thành "đẳng cấp quốc tế." Yếu tố chính để một ĐH được công nhận là "world class" (đẳng cấp quốc tế) là NCKH phải có chất lượng tốt, và nhất là đội ngũ GS phải có đẳng cấp quốc tế. Yếu tố để khẳng định đẳng cấp của một GS chính là NCKH qua công bố quốc tế. Đó cũng chính là lí do tại sao các ĐH ở nước ngoài đặt nặng tiêu chuẩn NCKH khi tiến phong chức danh GS/PGS.
Ở nước ta, tiêu chuẩn NCKH chưa được xem xét là quan trọng khi xét phong GS/PGS. Hiện nay, chúng ta có hơn 8000 GS/PGS. Nếu theo tiêu chuẩn nước ngoài (mỗi GS/PGS phải công bố ít nhất 1 bài báo khoa học) thì chúng ta phải có hơn 8000 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế. Nhưng trong thực tế, số ấn phẩm khoa học xuất phát từ Việt Nam trên các tập san khoa học quốc tế năm nay (2009) chỉ 1165 bài (năm ngoái có 1178 bài)! Con số này chỉ bằng 1/3 Thái Lan và 1/6 Singapore.
Dẫn chứng trên dẫn đến một đề nghị mà tôi muốn lặp lại ở đây: Cần phải xem công bố quốc tế là tiêu chuẩn số 1 để đề bạt chức danh GS/PGS. Đành rằng cũng cần phải xem xét đến các điều kiện mang tính địa phương trong khi đề bạt, nhưng các hoạt động khoa học lại mang tính quốc tế, và không có lí do gì các thước đo khách quan mà đa số nước trên thế giới đang sử dụng không áp dụng cho nước ta.
No comments:
Post a Comment