1. Trong Phật pháp có ba tạng, mười hai phần giáo, đức Thế Tôn khi xưa đã giăng nhiều thứ lưới nơi bể sanh tử sâu rộng, để tuỳ phần vớt các loài cá nhân thiên lớn nhỏ đưa lên bờ Niết Bàn. Nhưng nên nói lớn để gồm nhỏ, đâu thể cử một mà bỏ nhiều! Gần đây, tôi nghe có kẻ bảo: nhiều kiếp thành Phật, tất là Tiệm chớ không phải Đốn. Vả Tiệm giáo cũng là Phật dạy, chưa từng không đúng, song dùng Tiệm để bỏ Đốn giáo, phải chăng thật đã sai lầm?
Tôn giả bên trong ẩn giấu sự tỏ ngộ đốn viên, ngoài thì hiển bày pháp môn Tịnh độ. Việc này chư Phật cũng có như thế, không đủ để hiềm nghi. Nhưng học chúng của ngài lại chỉ trọng một đức A Di Đà mà bỏ hết mười lăm vị Vương tử, muốn tôn một kinh Tịnh độ mà bỏ hết ba tạng mười hai phần kinh. Đó là điều kẻ hèn này không muốn nghe! Hiện nay tuy nhằm vào thời mạt pháp, song con người há chỉ có độn tánh mà không lợi căn? Như Đức Thích Ca vì Ca Diếp, Kiều Trần Như thì nói pháp này; vì Thiện Tài, Long Nữ lại nói pháp khác. Chỗ thuyết giáo của Phật tùy cơ biến đổi, thật tròn trặn như trên mặt nước lăn trái hồ lô, nếu như cắm cọc đóng đinh, giữ cây chờ thỏ, làm sao lợi ích hàng nhân thiên được? Rất mong Tôn giả tùy cơ thuyết pháp, khi gặp hàng lợi căn nên vì nói thượng thừa, để họ ngộ lý viên dung không còn thiên trệ khiến cho đại bàng cùng chim én đều thích nghe. Như thế há chẳng là điều rất lành rất tốt ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm là Nhất thừa viên giáo, là vua trong các kinh. Trong bộ Di Đà Sớ Sao, Tôn giả lại đem kinh Di Đà sánh với Hoa Nghiêm, điểm ấy tợ hồ chưa thỏa đáng. Đã thế, có người lại còn nhân đó mà làm luận đưa cao Tịnh độ, đè nén Hoa Nghiêm, khiến cho màu tím sắc chu thành ra lẫn lộn! Mong Tôn giả vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm, đừng chê nhau cũng chớ lạm nhau, mới thật là lưu thông Phật pháp.
Thơ Đáp: Tiếp được tờ mây, biết cư sĩ đại lượng bao la, muốn đem hết chúng sanh trong pháp giới đưa vào biển tánh Nhất thừa. Đó là nguyện lớn của đức Phổ Hiền, riêng lòng thật lấy làm kính ngưỡng!
1. Theo lời cư sĩ bảo: Tôi nên tùy cơ diễn giáo, đó là ý kiến rất hay! Nhưng tùy muôn cơ mà dẫn dạy, đó là việc của chư Phật ra đời. Điều ấy kẻ hèn nay chưa làm được. Như khi xưa Lục Tổ ở Tào Khê chuyên dạy môn thiền Trực Chỉ, đâu phải ngài không thông các giáo pháp khác? Và như Viễn Công ở Lô Sơn riêng mở Bạch Liên Xã, gồm các bậc Tăng danh sĩ há chỉ tiếp dẫn kẻ độn căn. Đến như năm tông Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động, Quy Ngưỡng, Lâm Tế, tuy đồng ra một nguồn, nhưng sự tiếp độ của mỗi tông đều có phần sai khác. Những điều trên là sự thi thiết riêng của chi phái môn đình, đó cũng là lẽ tất nhiên, chẳng lấy chi làm lạ! Chư Tổ sư khi xưa đều như thế, huống nữa là kẻ phàm thường này ư? Nếu không tự lượng bắt trước theo Phật, nay nói pháp này, mai diễn pháp khác, thì thành ra mờ mịt chẳng có sư thừa. Đó tuy nói là lợi người, kỳ thật làm cho người lầm lạc. Tại sao thế? Bởi Phật là đấng Pháp Vương, đối với các pháp đều tự tại. Còn kẻ dân thường mà tiếm xưng Thiên tử là điều nguy hiểm, há chẳng nên kiêng dè ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm đúng là Nhất thừa Viên Giáo, gồm vô lượng môn; cầu sanh Tịnh độ là một trong vô lượng môn của Hoa Nghiêm. Theo căn cơ thời nay, nên do một Tịnh độ mà vào Hoa Nghiêm, không phải nêu Tịnh độ mà bỏ Hoa Nghiêm. Cư sĩ bảo do tôi đem kinh Di Đà so sánh với Hoa Nghiêm, nên mới có kẻ làm luận đưa cao Tịnh độ, đè nén Hoa Nghiêm. Xin hỏi bộ luận ấy ở đâu, do ai trứ tác? Nhưng tôi cũng chưa từng đem kinh Di Đà so sánh ngang với Hoa Nghiêm. Trong văn sớ sao của tôi chỉ nói: "Kinh Hoa Nghiêm cực viên, kinh Di Đà được một ít phần viên". Đó là bảo kinh Di Đà chỉ thuộc một phần pháp quyến của Hoa Nghiêm, có chi gọi đồng bậc? Vả lại khi nói Hoa Nghiêm, đã gồm Tịnh độ và nói Tịnh độ cũng thông với Hoa Nghiêm. Thế thì kẻ diễn Hoa Nghiêm tự nói Hoa Nghiêm, người nói Tịnh độ tự diễn Tịnh độ, vẫn đồng hành mà không trái nhau. Người thời nay chỉ biết Hoa Nghiêm rộng hơn Cực Lạc, song không rõ đức Di Đà chính là Phật Giá Na. Ngài Long Thọ, truyền bá kinh Hoa Nghiêm mà nguyện sanh Cực Lạc. Đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng phụ tá Phật Tỳ Lô Giá Na, hiệu là Hoa Nghiêm Tam Thánh, cũng phát nguyện về cõi Liên bang. Cư sĩ khuyên tôi vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm. Xin hỏi các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Long thọ là bậc người nào? Những vị Bồ tát ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, là căn tịnh Tịnh độ hay Hoa Nghiêm? Cư sĩ lâu nay vẫn truyền dương kinh Hoa Nghiêm, mà trái với đức Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, là điều tôi chưa hiểu nổi!
Thật ra, cư sĩ với tôi đều là bạn lành trong Hoa Tạng thế giới. Nay lão hủ lại muốn mời cư sĩ cùng làm huynh đệ ở Liên bang. Mong cư sĩ xét suy, đừng xem tôi là người bên ngoài vậy.
Thơ hỏi: - Đại đức Đoạn Phàm có đem thơ phú đáp của Tôn giả. Duyệt xem, thấy lời và ý ân cần, thật rất cảm lòng chiếu cố! Nhưng nỗi riêng chưa tỏ hết, còn xin có mấy điểm trình bày:
1. Kinh Pháp Hoa, trong phần khen công đức thọ trì có dẫn: "Nếu người nữ nào thọ trì phẩm này sẽ thoát hẳn nữ thân, sanh về Cực Lạc". Như thế sự vãng sanh Tịnh độ, phải chăng là nhân qủa của nữ nhân? Lại nữa, Kinh Lăng Nghiêm, trong phần tuyển lựa viên thông, đức Văn Thù đã bác môn niệm Phật của Ngài Thế Chí là vô thường, sanh diệt. Vậy ý tôn giả nghĩ như thế nào?
2. Tề Kỷ thiền sư, khi các học giả đọc đến hai câu kệ của ngài Thiện Đạo: "Duy có đường tắt tu hành. Chỉ niệm A Di Đà Phật" đã quát to: "Vẫn còn quanh lối cũ, niệm được cái gì? Thiền sư lại bảo: "Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Đà Phật!" Lời của một ngộ đạo nói như vậy, há không có ý vị ư?
3. Bởi thế bậc thức đạt đã bảo: "Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành không bằng một niệm ngộ Vô Sanh pháp nhẫn". Người trí cần phải vượt khỏi môn quyền học Tam thừa, không còn ngã và ngã sở. Nay sự vãng sanh Tịnh độ, ta là người hay sanh, Cực lạc là chỗ sanh về, thì năng, sở, người cảnh còn phân biệt rõ ràng, đâu gọi là cứu cánh?
4. Nếu như nói: "Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh". Đây tất phải đợi sau khi vãng sanh thấy đức Di Đà mới được ngộ đạo, phải chăng là qúa chậm trễ xa vời?
5. Trong thơ trước, tôi đã khuyên Tôn giả "Vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm "thật đã vì ngài mà tỏ bày hết tâm não. Tôn giả lại không lưu ý, nên vừa rồi thính chúng nơi pháp hội của ngài từ Hàng Châu sang đất Tô, vị nào cũng nôn nao cầu về chín phẩm. Nhân khi cùng nói chuyện, tôi vừa đề cập đến thượng thừa thì họ đều sửng mắt kinh lòng! Đó là lỗi của thầy, hay của hàng đệ tử. Đấng đại trượng phu khí lượng phải xung thiên, nay ngài đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, sao không đủ tác lược của bậc đại nhân, mà chỉ bắt chước hành động những ông già bà cả ăn chay ở đầu làng cuối xóm? Nếu một mai bị bậc lanh lợi thông suốt hỏi đến, sẽ toan ẩn mình trên sao Bắc Đẩu, hay chui thân vào núi Thiết Vi ư?
6. Thế thì việc Tôn giả muốn vời tôi cùng làm bạn sen nơi Cực Lạc, khác nào bảo kẻ này gánh gai bỏ vàng, đuổi thi vật mà chạy vào mê lộ? Há chẳng nghe nói: "Nếu là chim Đại bàng kim súy, mới giương cánh đã vượt cao chín tầng mây; ngựa Nhiếp ảnh thần câu, vừa cất vó đã lướt ra ngoài vạn dặm. Hạng này không còn theo lớp mà ăn uống, cũng không tùy tiện chịu vùi thân. Người xưa bảo: "Nếu muốn cứu cánh việc ấy, phải đứng trên chót vót đỉnh non cao, đi sâu tận lòng đáy biển thẳm. Như chưa bỏ được sự êm ấm của khuê phòng, thì có chỗ nào dùng được!". Cho nên, Phật pháp là việc lớn, không phải phàm thường. Mong ngài nghĩ lại.
Thơ đáp: Mấy điều huệ cố của cư sĩ, lời hay lẽ diệu, luận biện điệp trùng, thật là đáng ngợi khen, đáng ngưỡng vọng. Nhưng trộm nghĩ: "Lòng thương tôi tuy sâu, song tiếc đã lắm lời phí uổng!".
Nếu cư sĩ qủa muốn tuyên dương Thiền tông, ức chế Tịnh độ, thì không cần nói chi nhiều. Sao chẳng bảo: "Chư Phật trong ba đời bị miệng ta nuốt mất hết cả. Một đức Phật còn chẳng lập, có ai là A Di Đà? Lại sao không bảo: "Nếu người biết được tâm đại địa không một tấc đất. Một tấc đất đã không, nơi nào là cõi Cực Lạc?". Chỉ dùng hai lời ấy thôi, đủ gồm nhiếp hết những điều cư sĩ muốn nói. Nay nghĩ nếu mỗi mỗi đều thù đáp, e phạm lỗi đấu tranh. Nếu hẳn không trả lời, vì đạo pháp có tương quan, lại chẳng thể im lặng. Vậy xin tỏ bày ước lược như sau:
1. Cư sĩ dẫn kinh Pháp Hoa, nói sự vãng sanh Tịnh độ là nhân qủa của người nữ. Thế thì việc Long Nữ thành Phật, cũng là nhân qủa của người nữ ư? Lại dẫn kinh Hoa Nghiêm nói: Đức Văn Thù bác niệm Phật là vô thường, sanh diệt, không viên thông. Thế tại sao ngài Kiều Trần Như tỏ ngộ hai chữ Khách Trần có thể gọi là suốt lý vô thường, hợp lẽ bất sanh diệt, lại chẳng được chọn là pháp viên thông? Nếu qủa thật: Đức Quán Âm đỗ cao, ngài Thế Chí thi rớt, thì sao cư sĩ chẳng nghe biết điều thí dụ: "Cửa rồng chạm trán" là lời của kẻ quê mùa miền Đông dã ở nước Tề?
2. Về những điều của Tề Kỷ thiền sư bảo, cư sĩ đã học thiền, sao chẳng biết đó là các nhà tông sư vì người cởi chấp mở trói, ý ở ngoài lời, lại cứ theo văn tự hiểu thành sự thật, mà chịu chết dưới câu nói như thế? Nếu qủa vậy, thì cổ đức bảo: "Đạp trên đỉnh đầu Phật Tỳ Lô mà đi", cũng là đạp thật sự hay sao? Những cơ phong ấy trong các Ngữ lục có đến ngàn muôn ức. Lão hủ bốn mươi năm về trước cũng đã từng dùng đến để cho lời nói cao siêu xuất cách, câu văn mạnh mẽ hùng hào. Về sau xét lại biết hổ thẹn, không còn dám theo lề lối cũ, nay chợt nghĩ đến hãy còn đỏ mặt. Như Tề Kỷ thiền sư nói: "Y như trước bỏ cha chốn đi, lưu lạc tha phương khổ thay A Di Đà Phật!". Xin cũng dùng chuyển ngữ đối đáp: "Nay chính thật như con nhớ mẹ, trở lại quê xưa, vui thay A Di Đà Phật!". Thử đem cân lường câu nói này với lời ngài Tề Kỷ, xem bên nào ít nhiều nặng nhẹ, và có bao khoảng cách xa?
3. Trong thơ lại dẫn lời cổ nhân bảo: "Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành, không bằng một niệm ngộ Vô Sanh pháp nhẫn." Xin hỏi: "Cư sĩ đã chứng được Vô Sanh pháp nhẫn chưa". Nếu chứng được thì không nên cho rằng: Ta là người hay sanh, Tịnh độ là chỗ sanh về. Tại sao? Bởi tâm tức là cảnh, ai là người hay sanh? Cảnh tức là tâm, đâu là chỗ được sanh? Vì không còn thấy năng sở, nên tuy vãng sanh mà chưa từng có sanh. Đó mới thật là chân vô sanh. Nếu cho không sanh về đâu mới là vô sanh, thì thành ra lỗi đoạn diệt, thiên không vậy.
4. Cư sĩ bảo: "Nếu đợi hoa nở thấy Phật mới ngộ vô sanh là chậm trễ xa vời. Kẻ hiểu Thiền tông sao chẳng biết: từ mê được ngộ như giấc chiêm bao dài mới tỉnh? Người niệm Phật tùy theo căn cơ, có vị trong hiện đời đã kiến tánh. Đó là hoa sen nở trong giây phút. Có kẻ sau khi vãng sanh mới kiến tánh. Đó là hoa nở về lâu. Bởi căn cơ có sáng tối, công phu có trễ siêng, nên hoa nở mới có sớm muộn, đâu được nhất khái cho là sai chậm ư?
5. Trong thơ còn đề cập đến mấy vị Tăng ở núi hoang nào đó, khi hỏi tới Thượng thừa thì đều sửng mắt kinh lòng! Cư sĩ khuyên tôi với căn Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm, với cơ Tịnh độ thì đàm Tịnh độ. Nay những kẻ ấy thuộc về hàng độn căn, chính nên giảng Tịnh độ, sao cư sĩ không tùy bịnh cho thuốc, lại luận Thượng thừa với họ làm chi?
Cư sĩ lại bảo tôi đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tòa, mà không đủ tác lược của bậc đại nhân. Lão hủ chưa từng dám đương với danh dự ra ứng thế, nên tự ưng không có tác lược của bậc đại nhân. Điều này hãy tạm gác qua, không cần bàn luận. Nhưng nếu bỉ người tu Tịnh độ là hạng ông già bà cả ăn chay quê mùa, thật ra không phải chê các vị đó đâu, mà chính là bỉ đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ vậy! Đâu riêng gì những vị Bồ Tát ấy, mà chư Tổ như Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thiên Thai, Vĩnh Minh, chư đại thiện tri thức, các hàng danh nhân niệm Phật, theo cư sĩ, cũng là hạng quê mùa cả ư? Song hạng quê mùa nếu niệm Phật được vãng sanh, sẽ lên ngôi Bất thối chuyển, cũng đâu nên xem rẻ khinh chê? Những ông già bà cả ăn chay niệm Phật, cũng đáng khen ngợi là họ biết giữ theo quy củ quê mùa của chính mình. Còn hạng thông tài biện, ăn thịt uống rượu, vọng nói Bát Nhã, hôm sớm cứ tìm chư Tăng gạn Thiền nói đạo thì thế nào?
Đến như việc các ông già bà cả khi bị kẻ lanh lợi thông suốt hỏi đến, thì chẳng cần lên sao Bắc Đẩu, vào núi Thiết Vi làm chi cho cao xa. Họ chỉ cần đặt giường nằm nơi cổ họng, trải tòa ngồi trên đôi mắt của các vị lanh lợi thông suốt ấy. Làm như thế để làm chi? Để dạy chúng hãy tạm đóng môn tam muội nơi cửa miệng, biết nhắm mắt hồi hướng hồi quang phản chiếu xét trở lại chính mình đó thôi!
6. Cư sĩ cho rằng việc khuyên niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là điên đảo, đuổi theo vật vào mê lộ, là gánh gai bỏ vàng, làm khuất nhục đến mình. Nhưng các thí dụ ấy còn chưa thân thiết nay lão hủ xin đem một thí dụ khác thay thế:
Có một lão nông chân thật gởi thiệp vào cửa vị phú trưởng giả, mời đến nhà ở đồng ruộng của mình viếng cảnh. Mọi người nghe nói đều cười. Lão nông lại quét dọn đường sá sạch sẽ, đến mời thỉnh lần nữa. Người gác cửa nhà phú trưởng giả cười bảo: "Chủ nhân lần trước không quở trách ông là may lắm rồi. Ông định làm mặt dầy hay sao?". Lão ông đáp: "Tôi thấy trong các nhà giàu, có kẻ làm giàu mà bất nhân. Có người ngoài giàu nhưng trong nghèo. Có người chỉ giữ kho, giữ sổ sách ở nhà giàu, mà tự cho là mình giàu. Vả lại cảnh giàu sang như Kim Cốc, My Ô, nay còn đâu ư? Tôi là một lão già ở đồng ruộng, an hưởng sự vui thái bình, nên quên phận thấp kém của mình, mới thương xót mà mời thỉnh. Thôi từ nay cũng xin tự biết lỗi rồi! Nói xong cùng nhau cười rộ mà chia tay.
No comments:
Post a Comment