Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải.
BÀI THỨ SÁU
A LẠI DA THỨC (THỨC THỨ TÁM)
Thức này có rất nhiều tên, khi đọc đến luận "A đà na thức" qýi vị sẽ hiểu rõ. Nay chúng tôi chỉ kể sơ lược một vài tên.
1. Đệ bát thức: Thức thứ tám. Vì theo thứ đệ: một là nhãn thức, hai là nhĩ thức, cho đến thức thứ Tám là thức này, nên gọi là Đệ bát thức.
2. A lại da thức: Tàu dịch là "Tàng thức": Thức này có công năng chứa đựng chủng tử của các pháp. "Thức" là thể, mà "chứa" là dụng. Hiệp cả thể và dụng, nên gọi là "thức chứa" (Tàng thức). Có 3 nghĩa:
a. Năng tàng: Năng chứa. Thức này co công năng chứa đựng và gìn giữ chủng tử (hạt giống) của các pháp.
b. Sở tàng: Bị chứa. Thức này là chổ để chứa các pháp.
c. Ngã ái chấp tàng, gọi tắt là "chấp tàng": Thức thứ Bảy chấp kiến phấn của thức này làm Ta và thường ái luyến.
KHI Ở ĐỊA VỊ PHÀM PHU, THỨC NÀY ĐỐI VỚI:
1. Ba cảnh: Thức này chỉ duyên về "Vô bản chất tánh cảnh".
2. Ba lượng: Thức này chỉ có "hiện lượng"
3. ba tánh: Thức này thuộc về "Vô phú vô ký tánh".
4. Ba thọ: Thức này chỉ có "Xả thọ".
5. Ba cõi: Thức này tuỳ nghiệp lực dẫn sanh trong ba cõi.
6. Chín Địa:Trong chín địa đều có thức này.
7. Tâm sở: Thức này chỉ tương ưng với 5 món biến hành; song trong 5 thọ thì nó chỉ có "Xả thọ".
8. Chín duyên: thức này chỉ có 4 duyên: a. Căn (Mạt ma), b. Cảnh (Căn thân, thế giới và chủng tử), c. Tác ý, d. Chủng tử.
9. Thể (tánh): Vơi vơi không cùng (hạo hạo tam tàng bất khả cùng)
10. Tướng: Thức này như vực sâu (uyên thâm thất lãnh cảnh vi phong).
11. Nghiệp dụng: Thức này duy trì chủng tử căn thân, thế giới và làm chỗ để thọ các pháp huân vào.
KHI LÊN THÁNH VỊ, THỨC NÀY ĐỐI VỚI:
1. Quán hạnh: (Không có quán hạnh).
2. Đoạn hoặc và chuyển thành trí: Khi lên "Bất động địa" (Bát địa) thì hành giả đoạn được cu sanh Ngã chấp; lúc bấy giờ thức này bỏ cái tên "Tàng thức". Đến Kim Cang đạo rồi, thì hành giả đoạn hết cu sanh pháp chấp, không còn cảm thọ sanh tử, cho nên cũng không còn tên là "Dị thục thức"; vì đến địa vị này thì các chủng tử hữu lậu đã hết. Lúc bấy giờ thức này được gọi là "Vô cấu thức", và chuyển thành Đại viên cảnh trí.
3. Chứng quả và diệu dụng: Vì thức này đã thành Đại viên cảnh trí, nên chiếu khắp mười phương các cõi nước nhiều như vi trần.
Muốn cho người học dễ nhớ, nên trong Bát thức quy củ, ngài Huyền Trang Pháp sư có làm ba bài tụng để tóm lại các nghĩa trên như sau. Hai bài tụng đầu nói thức này khi còn ở địa vị phàm phu, bài tụng thứ ba, nói khi đã lên thánh quả.
Bài tụng thứ nhứt
Tánh duy vô phú ngũ Biến thành
Giới, Địa tuỳ tha nghiệp lực sanh
Nhị thừabất liễu nhơn mê chấp
Do thử năng hưng Luận chủ tranh
Dịch nghĩa
Vô phú tánh và năm Biến thành
Ba cõi, chín địa tuỳ nghiệp sanh
Nhị thừa không rõ sanh mê chấp
Bởi thế nên chi Luận chủ tranh (cãi)
LƯỢC GIẢI
Trong ba tánh, thức này thuộc về "Vô phú vô ký tánh". Trong 51 món tâm sở thức này chỉ tương ưng với 5 món Biến hành, song trong 5 thọ thì nó chỉ có Xả thọ. Tuỳ theonghiệp lực kéo dẫn, mà thức này sanh trong ba cõi và chín địa. Hàng Nhị thừa không hiểu, chấp thức này không có. Bởi thế nên Luận chủ dẫn rất nhiều bằng chứng trong các Kinh Luận để tranh luận, chỉ rõ và quyết định phải có thức thứ Tám này.
***
Bài tụng thứ hai
Hạo hạo tam tàng bất khả cùng
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong
Thọ huân trì chủng căn thân khí
Khứ hậu lai tiên tác chủng ông
Dịch nghĩa
Chơi vơi ba tàng không cùng tột
Vực sâu, bảy sóng, cảnh làm gió
Chịu huân, trì chủng và thân cảnh
Đến trước đi sau làm chủ ông
LƯỢC GIẢI
Ba tàng là Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng. Bởi thức này có công năng duy trì các chủng tử, nên gọi là "Năng tàng". Vì thức này là chỗ để chịu cho các pháp hiện hành huân vào, nên gọi là "Sở tàng". Thức thứ Bảy chấp kiến phần của thức này làm Ngã, nên gọi là "Ngã ái chấp tàng".
Thể và dụng của thức này sâu rộng vô cùng; hàng phàm phu và Nhị thừa không thể thấu tột. Chúng hữu tình từ vô thỉ đến nay, cũng do thức này mà sanh tử tương tục không cùng tột, nên trong bài tụng nói:
"Vơi vơi ba tàng không cùng tột".
Biển tàng thức rất là sâu rộng, gió bốn duyên (căn, cảnh, chủng tử và tác ý) một phen thổi vào, thì sóng bảy thức nhấp nhô nổi dậy.
Thức này có công năng duy trì chủng tử, căn thân, thế giới và chịu cho các phép hiện hành huân vào.
Thức này làm ông Chủ; vì khi chúng hữu tình chết thì nó đi sau, còn khi đầu sanh thời nó lại đến trước.
Cổ nhơn có làm bài kệ, để tả trạng thái người chết, trong lúc thần thức sắp rời thân xác, có thể kinh nghiệm biết người chết rồi được thăng lên hay đọa xuống.
Chánh văn
Đảnh Thánh, nhãn sanh Thiên
Nhơn tâm, Ngạ quỉ phúc
Bàn sanh tất cái ly
Địa ngục khước tâm xuất
Dịch nghĩa
Thánh đầu, Trời tại mắt
Người tim, Ngạ quỉ bụng
Súc sanh hai chân xuống
Địa ngục bàn chân ra
Bài tụng thứ ba
Bất động địa tiền tài xả tạng
Kim Cang đạo hậu Dị thục không
Đại viên vô cấu đồng thời phát
Phổ chiếu thập phương trần sát trung
Dịch nghĩa
Đến Đệ bát địa bỏ tên "Tàng"
Chứng Kim Cang đạo, không "Dị thục"
Gương trí không nhơ đồng thời phát
Khắp chiếu mười phương vô số cõi.
LƯỢC GIẢI
Hành giả khi tới Bất động địa, tức là Bát địa trở lên, thì thức này mới xả cái tên "Tàng thức" mà chỉ còn gọi là "Dị thục thức". Khi đến vị Đẳng giác, được Kim Cang đạo, thì thức này không còn gọi tên là "Dị thục" nữa. Vì lúc bấy giờ, các chủng tử hữu lậu cấu nhiễm đã hết, nên thức này được đổi tên là "Vô cấu thức"; chỉ còn thuần chủng tử vô lậu thanh tịnh, nên cũng được gọi là "Bạch tịnh thức".
Đến Kim Cang đạo, thì thức này được gọi là "Vô cấu" và chuyển thành Đại viên cảnh trí, nên trong bài tụng nói:
"Đại viên (trí) vô cấu (thức) đồng thời phát"
trí Đại viên này chiếu khắp cả mưởi phương thế giới nhiều như số cát sông Hằng; và hiện ra Báo thân Phật và Hoá thân Phật để độ thoát chúng sanh tột đến đời vị lai.
Tóm lại, thức thứ Tám này vì trải qua 3 giai đoạn, nên có 3 tên khác nhau:
1. từ phàm phu cho đến mãn Thất địa, thì gọi thức này là Tàng thức (A lại da) hay "Dị thục thức".
2. từ Bát địa đến Đẳng giác, thì không còn gọi là "Tàng thức" nữa mà chỉ gọi là "Dị thục thức".
3. Đến quả vị Phật, thì tên "Dị thục" cũng không còn, mà chỉ gọi là "Vô cấu thức" hay "Bạch tịnh thức".
***
Muốn cho người học dễ nhớ hành tướng và công năng của 8 thức tâm vương nên cổ nhân có làm bài thơ rằng:
Bát cá đệ huynh, nhứt cá si
Độc hữu nhứt cá tối sinh ly
Ngũ cá môn tiền tố mãi mại
Nhứt cá gia trung tác chủ y.
Dịch nghĩa
Anh em tám chú một chàng si (thức thứ Bảy)
duy có ý thức rất linh ly (khôn ngoan)
năm người ngoài cửa lo buôn bán (năm thức trước)
làm chủ trong nhà Đệ bát y (thức thứ Tám)
No comments:
Post a Comment