Quán Vô Lượng Thọ kinh (zh. 觀無量壽經, sa. Amitāyurdhyāna Sūtra) là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông (*). Kinh miêu tả thế giới phương Tây của Phật A-di-đà
và dạy cách hành trì: sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu
Phật A-di-đà, hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được tái sinh
nơi Tịnh độ của A-di-đà.
Kinh này chỉ rõ quá trình phát sinh giáo pháp của Tịnh độ tông và
thật ra đã được đức Phật lịch sử Thích-ca trình bày. Tương truyền rằng,
hoàng hậu Vi-đề-hi, mẹ của vua A-xà-thế, bị con mình bắt hạ ngục cùng với chồng là vua Tần-bà-sa-la (sa., pi. bimbisāra).
Bà nhất tâm cầu nguyện Phật và khi Phật hiện đến, bà xin tái sinh nơi
một cõi yên lành hạnh phúc. Phật dùng thần lực cho bà thấy mọi thế giới
tịnh độ, cuối cùng bà chọn cõi Cực lạc
của A-di-đà. Phật dạy cho bà phép thiền định để được tái sinh nơi cõi
đó. Phép thiền định này gồm 16 phép quán tưởng, và tuỳ theo nghiệp lực
của chúng sinh, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp
bậc của Tịnh độ.
Mười sáu phép quán tưởng đó là: quán mặt trời lặn; quán nước; quán
đáy sông; quán cây cối; quán nước cam lộ; quán thế giới thực vật; quán
nước và đáy nước; quán toà sen; quán ba báo thân của ba vị thánh
A-di-đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí;
quán ba ứng thân của Phật A-di-đà; của Quán Thế Âm; của Đại Thế Chí;
quán A-di-đà trong Tịnh độ; quán ba vị thánh trong Tịnh độ; quán cấp
thượng căn trong Tịnh độ; quán cấp trung căn và hạ căn trong Tịnh độ.
Các phép quán này giúp hành giả có thể thấy được A-di-đà và hai vị Bồ
Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ngay trong đời này và đó là dấu hiệu chắc
chắn hành giả sẽ được tái sinh về Tịnh độ.
(Source)
Kinh Quán vô lượng thọ là một trong ba kinh được đề
cập nhiều nhất của tịnh độ tông. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, nó là một bộ
kinh gây ảnh hưởng lớn trong quần chúng về tín ngưỡng Di đà. Và kinh này
được dịch vào triều đại Lưu Tống, do Khương Lương Da Sá dịch
(Kalayacas).
Nhân duyên thuyết giảng kinh nầy là
Đức Phật nhân cơ hội bà Vi Đề Hy (Vaidehi) thỉnh cầu. Trước cảnh đời
"bạc như vôi" mà bà chứng kiến, cảnh con trai là thái tử A xà thế
(Ajtacatra) hành hạ cha đẻ và bỏ ông ấy vào ngục tù đói lạnh, không ai
thăm viếng, kể cả bà cũng bị nghiêm cấm, nên bà đã rất thất vọng, mong
nhờ đức Phật khai mở lối thoát. Đức Thế Tôn đã rất xúc động trước tình
cảnh ấy của hoàng hậu Vaidehi, nên ngài đã dạy cho bà niệm Phật A di đà
để được vãng sanh về thế giới Cực lạc.
Và Đức Phật dạy rằng: nếu ai muốn sanh về thế giới Cực lạc của đức Phật A di đà thì phải thực hành ba việc sau:
- Phải làm lành bằng cách chu toàn bổn phận của người chồng, người mẹ, người vợ, người dâu, tức phải biết hiếu dưỡng.
- Làm lành bằng cách thọ trì Tam quy, ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới,...
-
Làm lành bằng cách thực tập Tứ diệu đế, cũng như trong các buổi giảng
pháp, đọc kinh điển đại thừa, khuyên người tu hạnh tinh tiến.
Lại
nữa, kinh Quán vô lượng thọ, còn đưa ra 16 phương pháp quán tưởng về
mặt trời. quán tưởng nước, đất, cây cối, toà sen, sắc tướng, .v.v...
Trong
16 phép quán nầy kết hợp với chín phẩm vãng sanh, gồm: ba bậc thượng
phẩm vãng sanh, ba bậc trung phẩm vãng sanh, và ba bậc hạ phẩm vãng
sanh.
Muốn được vãng sanh về thượng phẩm thì chúng
ta phải từ tâm, không sát hại, nghiêm trì giới hạnh, tụng đọc các kinh
Phương đẳng đại thừa, tu hành Lục niệm[8], hồi hướng phát nguyện vãng
sanh Tịnh độ gọi là thượng phẩm thượng sanh. Như không đọc các kinh
Phương đẳng đại thừa mà hiểu được "đệ nhất nghĩa đế", tin tưởng sâu sắc
vào luật nhân quả, không phỉ báng đại thừa gọi là thượng phẩm trung
sanh. Như nếu phát khởi đạo tâm vô thượng, tin nhân quả không phỉ báng
đại thừa, tức là thượng phẩm hạ sinh. Ba bậc nầy thuộc về thượng phẩm
vãng sanh.
Đối với hạng người tu hành giữ giới cấm,
không tạo tội ngũ nghịch, không mắc phạm sai lầm, gọi là trung phẩm
thượng sanh. Nếu một ngày một đêm trì giới thanh tịnh (bát quan trai
giới), gọi là trung phẩm trung sanh. Còn nếu hạng người chưa thọ giới,
nhưng luôn luôn biết hiếu dưỡng cha mẹ, thực hiện nhân từ trong thế
gian, khi sắp lâm chung, nghe thấy y báo, chánh báo trang nghiêm của
đức Phật A di đà, phát nguyện vãng sanh, gọi là trung phẩm hạ sanh. Đó
là ba bậc thuộc trung phẩm vãng sanh.
Còn lại ba
phẩm thuộc hạ sanh, là chỉ cho hạng người thiện ác lẫn lộn. Nếu họ gây
ác nghiệp, nhưng không bài báng kinh điển đại thừa, hạng này được hạ
phẩm thượng sanh. Đối với hạng huỷ phạm giới luật, ăn trộm tài sản của
tăng, thuyết pháp bất tịnh như vì danh dự, lợi dưỡng, địa vị mà thuyết
pháp, gọi là hạng hạ phẩm hạ sanh.
Trên đây là tóm tắt đại ý của kinh quán vô lượng thọ mà đức Phật đã dạy nhân vụ việc của hoàng hậu Vi đề hy.
(Source: ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG TỊNH ĐỘ - Thích Vân Pháp)