Tuesday, October 13, 2015
Friday, October 9, 2015
Chuyện cõi âm - cõi dương
Trong cuộc đời, không ít lần chúng ta đặt câu hỏi, có ma hay không? Nhiều người cãi nhau tới lui về chuyện này và đa số họ không đưa đến kết luận gì và thậm chí gây bất hòa vì cãi nhau hăng quá. Hơn nữa người đời vốn dĩ thích sự huyền bí và cộng thêm tính tò mò, cho nên câu hỏi này vẫn cứ lặp đi lặp lại từ bao đời cho đến hôm ni.
Vậy quan điểm của nhà Phật về ma như thế nào. Câu trả lời sẽ có trong những video clips dưới đây. Riêng mình, quan điểm rất rõ ràng, mình tin và thấy ma rồi. Đồng thời, mình khẳng định là thấy ma rất nhiều lần từ nhỏ đến giờ. Bởi vì, nếu trong người mình khởi lên một suy nghĩ sai, hoặc từ khởi niệm sai dẫn đến làm bậy, thì lúc đó ma sự trong người mình xuất hiện. Từ nhỏ đến chừ, những việc đó xảy ra không hề ít, nên ma mình gặp là khá nhiều.
Thế mình có sợ ma không? Xin thưa là rất sợ nhưng sợ để mà tránh mà đối trị chứ chẳng phải sợ mà bỏ của chạy lấy người. Bởi con người vốn dĩ thích làm bậy và dễ học theo thói làm bậy, nên ma sự luôn luôn nằm sẵn trong người. Có cơ hội là nó hiển hiện tức thì. Cái khó là chúng ta làm sao hướng thiện, để Phật hiện tiền. Muốn thế, mình phải rèn rất nhiều. Trước hết, phải quán chiếu chính mình, làm sao để mình đạt được chánh kiến, chánh tư duy dẫn đến nói hay, làm đúng.
Vậy làm sao để không sợ ma. Cách làm ở trên là để đuổi tà ma ngoại đạo rồi. Chúng ta cứ nghĩ đúng, làm đúng thì sẽ ổn. Bởi lúc đó, Phật tính trong người nổi lên thì mình đã là Phật. Mà Phật thì chẳng bao giờ đi chung với ma. Ngược lại, chúng ta có ma sự trong người thì quanh ta ma cứ quấn quýt lấy. Có thể mình không đủ thần thông để nhận thấy nhưng dường như lúc đó tâm ta cứ quanh quẩn đâu đó ở chín tầng địa ngục mặc dù thân xác ở cõi trần tục.
Nói vậy là theo lý thuyết nhà Phật. Tuy nhiên, tùy cơ địa của người, chúng ta có một số cách để đối trị việc sợ ma. Ví dụ, người yếu tim thì không thể áp dụng được. Bởi họ chẳng có nghĩ sai hoặc làm sai nhưng nghe người kể chuyện mà thì hồn xiêu phách lạc và thậm chí hoảng loạn. Vì thế, niệm Phật Quán Thế Âm Bồ Tát là cách hữu hiệu để định tâm họ lại. Thực ra đấy là một phương pháp tâm lý trị liệu là chính. Nói nôm na là chúng ta dựa hơi vào Bồ Tát Quán Âm để định tâm, tâm định thì bình an và chẳng sợ gì.
Để tìm hiểu thêm về ma trong mùa Haloween, chúng ta nghe các vị giảng sư giảng về chủ đề này:
(Youtube)
Labels:
âm dương,
cõi âm,
cõi dương,
Haloween,
Hoằng Pháp,
Le Thanh Tan,
ma,
pháp âm,
Phật
Monday, October 5, 2015
Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Thầy Thích Tuệ Hải giảng giải (trọn bộ 58 tập)
(Youtube)
Quyển 03 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...
Quyển 04 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...
Quyển 05 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...
Quyển 06 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...
Sơ lược:
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm là tên gọi tắt của Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu
Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm (Đại
Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng
Nghiêm Kinh), do sa môn Bát Lạt Mật Đế
(người Trung Thiên-trúc) dịch vào năm 705 (đời Đường) tại chùa Chế-chỉ ở Quảng-châu
(tỉnh Quảng-đông), được thu vào Tạng Đại Chánh, quyển 19, kinh số 945. Tên kinh này cũng thường được gọi một cách
ngắn gọn là Kinh Thủ Lăng Nghiêm (hoặc
gọn hơn nữa là Kinh Lăng Nghiêm); nhưng
khác với bản Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, do pháp sư Cưu Ma La Thập (344-413) dịch vào đời Diêu-Tần (Tạng Đại
Chánh, quyển 15). Theo Khai Nguyên
Thích Giáo Lục của pháp sư Trí Thăng (đời
Đường), kinh này đã do sa môn Hoài Địch (người Trung-quốc) dịch; nhưng
trong Tạng Đại Chánh (quyển 19) thì
ghi người dịch là sa môn Bát Lạt Mật Đế, mà không có tên sa môn Hoài Địch. Theo
pháp sư Viên Anh (1878-1953) trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Bát Lạt Mật Đế
là vị “dịch chủ” (người dịch chính
thức và là vị đứng đầu của đạo tràng phiên dịch), còn sa môn Hoài Địch thì phụ
trách việc “chứng nghĩa” (thẩm định
sự chính xác của văn dịch).
Ý nghĩa đề kinh:
- Đại Phật Đảnh. Chữ “đại” ở đây có nghĩa là rộng lớn
bao trùm, rốt ráo cùng cực. “Phật đảnh” là tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu của đức
Phật. Đó là tướng cao quí, nhiệm mầu nhất trong 32 tướng tốt của đức Phật, con
mắt phàm phu của chúng sinh không thể thấy được.
- Như Lai Mật Nhân. “Như Lai” là danh hiệu đầu tiên trong mười
danh hiệu chung của chư Phật; Như Lai tức là Phật. “Mật nhân” nghĩa là nguyên
nhân sâu kín huyền nhiệm, đó tức là chân tâm tịch tĩnh, thanh tịnh, thường hằng.
- Tu Chứng Liễu Nghĩa. “Liễu nghĩa”
có nghĩa là tiến thẳng tới chỗ rốt ráo cùng cực, đó là giải thoát trọn vẹn, niết
bàn tuyệt đối, là quả vị Vô thượng Bồ đề, là Phật. Nương vào chân tâm bất sinh
diệt để tu hành, tu mà không trước tướng, tu mà không tu, đó gọi là “tu liễu
nghĩa”; chấm dứt sinh diệt, thể nhập thật tánh vạn hữu, giải thoát rốt ráo, đạt
niết bàn tuyệt đối, gọi là “chứng liễu nghĩa”. Cả tu và chứng đều liễu nghĩa, gọi
là “tu chứng liễu nghĩa”.
- Chư Bồ Tát Vạn Hạnh. Bồ-tát tu vô
số hạnh, gọi tổng quát là “muôn hạnh”. Bồ-tát vận dụng trí tuệ và từ bi, trên
thì cầu đạo quả giác ngộ, dưới thì cứu độ chúng sinh, tự lợi và lợi tha gồm đủ,
đó là “muôn hạnh của chư vị Bồ-tát”.
- Thủ Lăng Nghiêm. Ba chữ này là phần chủ yếu trong đề
kinh. Chữ “thủ lăng” có nghĩa là tất cả đều rốt ráo; chữ “nghiêm” nghĩa là bền
chắc. “Thủ-lăng-nghiêm” là tên một loại định,
và đó là loại định lực rốt ráo, kiên cố, bao trùm tất cả các loại định khác, chỉ
có chư vị Bồ-tát ở các bậc Thập-địa, Đẳng-giác
và Phật (Diệu-giác) mới đạt được; bởi vậy, nó được gọi là “đại định”, hay “đại
căn bản định”. Nó chính là chân tâm bản lai thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng,
không lay động, không tán loạn, không dời đổi, cho nên cũng được gọi là “Phật tánh”.
Định Thủ Lăng Nghiêm rộng lớn,
sâu nhiệm, siêu việt thời gian và không gian, không thể đem tâm thức vọng tưởng
phân biệt của chúng sinh mà nhận biết được, giống như tướng “nhục kế” trên đỉnh
đầu của đức Phật (đại Phật đảnh), con mắt của chúng sinh phàm phu không thể
trông thấy được. Định Thủ Lăng Nghiêm là cái nhân
sâu kín, từ đó mà phát khởi ra vô lượng công đức trí tuệ của chư Phật, và cũng từ
đó mà chư Phật thành tựu đạo quả Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng; cho nên nó được gọi
là “Như Lai mật nhân”. Định Thủ Lăng Nghiêm là loại định
rốt ráo, vô thượng, cho nên tu định này tức là tu pháp môn viên đốn (trọn vẹn,
nhanh chóng), để chứng đạt tức thì đạo quả rốt ráo, tối thượng, gọi là “tu chứng
liễu nghĩa”. Chư vị Bồ-tát
thực hiện muôn hạnh tự lợi, lợi tha hoàn toàn viên mãn đều do thành tựu được định Thủ Lăng Nghiêm này, cho nên định
này cũng tức là “chư Bồ-tát vạn hạnh”.
Chân tâm
thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng, vốn sẵn có nơi chúng sinh. Nhưng vì chúng
sinh mê lầm, không tự nhận biết được, si cuồng chấp có thân tâm ta và sự vật ở
ngoài ta, chạy theo trần cảnh mà phát sinh phiền não, đắm trước, tạo ra vô số tội
lỗi; rồi theo nghiệp lực, quả báo mà luân chuyển trong sinh tử luân hồi. Đức Phật
thương xót, nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm này để độ cho các chúng sinh có căn cơ cao,
nhanh chóng phá trừ mê muội, dứt tuyệt phiền não, chứng nhập đại định Thủ Lăng Nghiêm, trực nhận bản
tâm thanh tịnh thường trú, sáng suốt nhiệm mầu, đạt được địa vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Nguồn gốc:
Vị thính giả
đương cơ để Phật nói Kinh Thủ Lăng
Nghiêm này là tôn giả A Nan (hay A Nan
Đà). Ngài là em chú bác của đức Phật, sau khi theo Phật xuất gia, được làm thị
giả hầu cận Phật trong một thời gian dài, trở thành vị đệ tử được nghe Phật nói
pháp nhiều nhất, đầy đủ nhất, và nhớ kĩ nhất, được mọi người tôn kính xưng là vị
thánh tăng nghe nhiều hiểu rộng nhất (đa
văn đệ nhất) trong tăng đoàn của Phật; và được liệt vào một trong mười vị đại đệ
tử của Phật.
Dịch giả của
bản kinh này là sa môn Bát Lạt Mật Đế (Pramiti). Ngài là người Trung
Thiên-trúc, trên đường viễn du hoằng pháp, đã mang nguyên bản Phạn văn của Kinh Thủ Lăng Nghiêm đến chùa Chế-chỉ ở thành phố Quảng-châu (tỉnh Quảng-đông, Trung-quốc)
năm 705 (đời Đường), và dịch bộ kinh này ra Hán văn ngay năm đó.
Theo truyền
thuyết, Kinh Thủ Lăng Nghiêm vốn được cất giữ ở Long cung. Nhân Bồ Tát Long
Thọ (thế kỉ thứ 2-3 TL) xuống Long cung thuyết pháp, thấy trong kho có bộ kinh
này, bèn lấy ra xem, cho đó là bộ kinh hi hữu. Ngài tụng thầm hết bộ kinh, và
nhớ thuộc lòng. Trở về lại trú xứ, ngài chép bộ kinh ấy ra để trình lên quốc
vương xin lưu truyền. Nhà vua cũng cho đó là Pháp bảo hiếm có, bèn ban lệnh cất
vào kho, làm vật quốc bảo của Thiên-trúc, không những bị cấm mang ra khỏi nước
mà còn bị cấm dạy cho các du tăng ngoại quốc đến Thiên-trúc tu học.
Kinh này khi
chưa truyền đến Trung-quốc, thì tên của nó đã được người Trung-quốc nghe biết
và kính ngưỡng rồi. Nguyên do là vì, một hôm nọ, một vị Phạn tăng lên núi
Thiên-thai tham kiến đại sư Trí Khải (538-597), nghe đại sư giảng pháp môn “Chỉ
Quán”, vị Phạn tăng rất bội phục, nói rằng: “Pháp môn Chỉ Quán do ngài phát
minh ra rất gần với giáo nghĩa của Kinh
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm ở Thiên-trúc!”
Đại sư Trí Khải rất xúc động khi nghe vị Phạn tăng nói lên điều đó. Ngài muốn
được nhìn tận mắt bộ kinh ấy để xem pháp môn Chỉ Quán của mình giống với lời dạy
của đức Phật tới mức nào; hoặc có gì khác nhau. Ngài liền xây một cái đài ngay
trên núi Thiên-thai, gọi là Bái-kinh đài; mỗi ngày đều hướng về phương Tây lễ lạy,
cầu nguyện cho bộ kinh ấy được truyền sang Trung-quốc. Ngài đã lễ lạy như thế
cho đến ngày viên tịch, ròng rã 18
năm, không một ngày gián đoạn! – Mà kinh ấy vẫn chưa đến! Việc này đã được loan
truyền đi khắp nước. (Một thuyết
khác nói rằng: Ngài Thiên Thai Trí Giả theo học đạo thiền sư Huệ Tư ở núi
Nam-nhạc, đắc Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh-sơn nghiễm nhiên chưa
tan. Từ đó xem Kinh, Luật hoát nhiên thông suốt. Đến khi ngài giải thích ý
nghĩa sáu căn trong sạch trong kinh
Pháp Hoa thì trầm ngâm rất lâu. Có một vị tăng người Ấn nói với ngài: “Chỉ có
kinh Thủ Lăng Nghiêm là nói rõ ràng công đức của sáu căn, đủ để y chứng.” Từ đó
ngài Trí Giả khao khát ngưỡng mộ. Suốt 16
năm, mỗi sáng tối hướng về phương Tây lễ bái. Ở phía trái chùa Thiên-thai ở núi
Nam-nhạc vẫn còn đài kinh... – Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông, Nhẫn Tế thiền
sư dịch.)
Mãi cho tới đầu
thế kỉ thứ 8, ngài Bát Lạt Mật Đế mới đem Kinh Thủ Lăng Nghiêm truyền đến
Trung-quốc. Nguyên vì bấy giờ bộ kinh ấy bị cấm truyền ra khỏi Ấn-độ, nên các
trạm gác biên giới kiểm soát rất gắt gao, ngài phải đem bộ kinh ấy đi ba lần mới
qua lọt biên giới. Hai lần đầu, dù ngài dấu kĩ đến thế nào, các quan viên biên
phòng vẫn khám xét ra. Vì là người xuất gia, ngài đã không bị xử phạt, nhưng vẫn
bị đuổi về, không cho đi ra khỏi nước. Tuy vậy, ngài vẫn quyết chí đi nữa. Lần
này, không còn cách nào khác, ngài bèn chép lại bản kinh ấy với chữ thật nhỏ,
trên những miếng da thật mỏng, cuộn lại, rồi xẻ bắp tay của chính mình ra, nhét
bộ “kinh da” vào trong đó, và may kín lại. Đợi cho đến khi vết thương hoàn toàn
lành lặn, ngài lại ra đi. Lần này thì bộ kinh đã không bị khám phá, cho nên
ngài đã được phép rời Ấn-độ. Ngài theo đường hàng hải, đến Quảng-châu (Trung-quốc)
vào năm 705 (đời vua Đường Trung-tông). Sau khi gặp được chư tăng ở chùa Chế-chỉ,
Quảng-châu, ngài mới cho biết là ngài đã mang được bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm đến đây. Ai nghe cũng đều vui mừng, vì đó là
điều mọi người từng mong đợi từ hơn trăm năm nay. Khi được hỏi bộ kinh ở đâu,
ngài mới rạch cánh tay theo vết may cũ, lấy bộ “kinh da” từ trong ấy ra. Máu chảy
dầm dề, phải rửa thật sạch sẽ, bấy giờ bộ kinh mới hiện ra tỏ rõ. Liền đó, bộ
kinh đã được dịch ra Hán văn ngay tại chùa Chế-chỉ. Sau khi bộ kinh này được dịch
xong, ngài liền xuống thuyền trở về Thiên-trúc để chịu tội với vua, vì đã trái
lệnh, tự ý đem Kinh Lăng Nghiêm truyền
sang Trung-quốc.
Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm này, tại Trung-hoa, từ các đời Đường, Tống đến nay, đã có hàng trăm
nhà chú giải. Khi có ý định dịch bộ kinh này ra Việt ngữ, chúng tôi may mắn có
được quyển Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh (1878-1953, người
Phúc-kiến, Trung-quốc), vì vậy, chúng tôi đã y theo phần “chánh văn” trong tác
phẩm này để dịch; và phần “giảng nghĩa” của pháp sư cũng giúp ý cho chúng tôi rất
nhiều trong lúc dịch. Ngoài ra, chúng tôi cũng tham khảo hai bản Việt dịch khác
của hai bậc dịch giả tiền bối mà chúng tôi đang có trong tủ sách gia đình, đó
là bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm của bác sĩ
Tâm Minh LÊ ĐÌNH THÁM (1897-1969, người Điện-bàn, Quảng-nam, VN) dịch, và bộ Kinh
Lăng Nghiêm Tông Thông của thiền sư NHẪN
TẾ (1889-1951, chùa Tây-tạng, Bình-dương, VN) dịch.
Xem thêm:
Kinh Lăng Nghiêm - Thầy Thích Tuệ Hải giảng giải (29 tập)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm - TT.Thích Nhật Từ
(1-2) Quyển 01 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng...
(2-2) Quyển 01 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng...
Quyển 02 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...Quyển 03 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...
Quyển 04 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...
Quyển 05 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...
Quyển 06 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Hoà Thượng Tuyên...
Kinh Lăng Nghiêm (1-7) Pháp Sư Tịnh Không
Kinh Lăng Nghiêm (2-7) Pháp Sư Tịnh Không
Kinh Lăng Nghiêm (3-7) Pháp Sư Tịnh Không
Kinh Lăng Nghiêm (4-7) Pháp Sư Tịnh Không
Kinh Lăng Nghiêm (5-7) Pháp Sư Tịnh Không
Kinh Lăng Nghiêm (6-7) Pháp Sư Tịnh Không
Kinh Lăng Nghiêm (7-7) Pháp Sư Tịnh Không
Sunday, October 4, 2015
Subscribe to:
Posts (Atom)