1. Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN SANH.
2. Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO.
3. Ngày 19/9 là vía QUÁN THẾ ÂM XUẤT GIA.
Để hiểu thêm về Bồ Tát Quán Thế Âm và công hạnh của Ngài, mời các bạn nghe các bài giảng và bài viết của Hòa Thượng Thích Huyền Tôn dưới đây:
(Youtube)
Công Hạnh Bồ Tát
Quán Thế Âm
Hòa Thượng Thích
Huyền Tôn
-QUÁN-THẾ-ÂM
Đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh
nhân được tôn xưng là mẹ hiền.
-QUÁN-THẾ-ÂM
Danh hiệu của tình thương bao la không bờ bến, bao
la rộng khắp cõi hư không.
-QUÁN-THẾ-ÂM
gắn liền với tim óc của nhân loại, của muôn loài
chúng sanh.
Với
QUÁN-THẾ-ÂM nơi nào có khổ đau, nơi nào có tai nạn!
Nơi đó phát ra tiếng niệm QUÁN-THẾ-ÂM chí thành và
tha thiết. Nơi đó có QUÁN-THẾ-ÂM . Nơi đó được giải
trừ tất cả khổ đau và tai nạn!
Danh
hiệu Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM trong nhân loại ai cũng đều
biết đến, cũng đều niệm khi có tai nạn hiểm nguy và
ách nạn khủng khiếp. Ngoại trừ hạng người sanh ra
nơi biên địa, hoặc căn trí quá tối tăm, hoặc tín
ngưỡng tà đạo, mê muội với thần quyền hữu danh mà vô
thực. Hoặc là hạng người đã bán rẽ Mẹ Cha tôn thờ
xác ma chết treo đầy quái gỡ làm cứu cánh. Vì chính
họ đã chối bỏ Quán-Âm thì Quán-Âm không giao cảm đến.
Tuy nhiên hạng người đó biết hồi tâm trong khoảnh
khắc thì Quán-thế-Âm vẫn thị hiện để hóa độ.
Ý NGHĨA QUÁN-THẾ-ÂM BỒ TÁT
-QUÁN
là quán xét, thấy nghe, biết đối tượng thật rõ ràng.
-THẾ
là cõi đời, cỏi hữu tình thế gian.
-ÂM
là tiếng niệm, tiếng kêu cứu, tiếng cầu nguyện từ
mọi nơi đau khổ phát ra.
-BỒ-TÁT
là độ thoát cho loài hữu tình, cứu thoát, giác ngộ
cho tất cả các loài chúng sinh có tình cảm được vượt
thoát ra khỏi khổ đau ách nạn.
Đức
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ TÁT , đạt được diệu quả NHĨ CĂN VIÊN
THÔNG nên quán xét và nghe, thấy, biết cùng tột
tiếng kêu đau khổ khắp cõi thế gian, hiện ngay nơi
đó để cứu độ chúng sanh được vượt thoát tất cả những
hiểm nguy , nên gọi là QUÁN-THẾ-ÂM .
Do
công hạnh cứu độ tự tại nhiệm mầu đó, nên trong kinh
điển còn gọi là QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT .
QUÁN-THẾ-ÂM T iếng Phạn Avalokitesvara , nghĩa là,
Ngài nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm
chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Đem an lạc
từ bi tâm vô lượng không phân biệt dến với mọi loài,
nói cách khác là tình yêu thương trìu mến vô biên
gấp muôn vạn lòng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối
với đứa con cưng, nên gọi là Từ-mẫu Quán-thế-Âm.
QUÁN-THẾ-ÂM VÔ ÚY
Kinh
Pháp Hoa phẩm Phổ Môn : "Bồ Tát đối với cấp nạn nguy
hiểm, kinh sợ, còn ban cho chúng sanh năng lực Vô Úy
để tự vượt thoát khổ ách", nên gọi là Quán-Âm Vô-Úy.
SỰ
TÍCH BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
Đức
Phật BỔN SƯ THÍCH CA khi nói kinh Bi-Hoa đã dạy rằng
: - Về thời qúa khứ lâu xa về trước, đức Quán-Thế-Âm
làm thái tử con của vua Vô-Tránh-Niệm. Thời bấy giờ
có đức Phật hiệu là BẢO TẠNG NHƯ LAI, hiểu được đạo
lý vô thượng, Vua và Thái-tử phát tâm Bồ-đề rộng lớn,
nguyện tu các hạnh Bồ-tát, mong thành Phật quả để
phổ độ chúng sanh.
Khởi
đầu đức Vua và Thái tử làm người thí chủ chân thành
cúng dường các thứ y phục, thuốc men, vật thực, mùng
mền và tất cả các món cần dùng lên đức BẢO TẠNG NHƯ
LAI và chúng tăng trong suốt 3 tháng. Nhờ nhất niệm
tinh chuyên, tinh tấn không ngừng, vua Vô-Tránh-Niệm
chứng thành quả Phật và phát 48 lời thệ nguyện rộng
lớn để tế độ khắp cả chúng sanh, Ngài liền thành
Phật hiệu là A-di-Đà,
giáo chủ cõi Tây Phương Cực lạc. Thái tử công hạnh cũng
tròn đầy viên mãn cũng về cõi Cực-Lạc thành bậc đại
Bồ Tát hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM cùng với Phật A-DI-ĐÀ
tiếp dẫn chúng sanh về cõi Cực lạc.
CÔNG HẠNH BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
Ngài
Huyền-Trang pháp sư đời Đại Đường nói : "Quán Có,
mà không trụ nơi Có, Không mà không
trụ nơi Không. Nghe Danh, mà không lầm
đối với Danh, thấy Tướng mà không chìm
ở nơi Tướng. Tâm, không động ở Tâm.
Cảnh không trước ở cảnh; tất cả hiện hữu
đó, không làm loạn được Chơn, đó chính là TRÍ TUỆ VÔ
NGẠI. Bồ tát Quán-Thế-Âm đã dùng TRÍ TUỆ VÔ NGẠI đó
mà tìm tiếng kêu của chúng sanh ứng hiện tới mà cứu
khổ, dù muôn ngàn vạn ức tiếng kêu cầu cứu khổ mà sự
cứu khổ không mất thời gian, diệu dụng của
QUÁN-THẾ-ÂM là như thế.
Lại
nữa, trong Nhị-Khóa-Hiệp-Giải viết rằng : "Quán, là
Trí năng-quán, Thế-Âm, là Cảnh sở-quán. Muôn ngàn
hình tượng, muôn ngàn thứ tiếng chen nhau giao động,
khác biệt, cách trở điệp điệp trùng trùng, do lòng
từ rộng lớn vô biên của Ngài cùng một lúc đều được
cứu độ, nên danh hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM .
Thái-Hư đại sư khi luận về Kinh Pháp-Hoa có nói đến
hạnh nguyện cứu khổ của Bồ-tát Quán-Thế-Âm như sau :
"Đức Quán-Thế-Âm tìm nghe tiếng cầu cứu thống khổ
của tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn liền
ngay khi đó đến mà cứu độ, quả vị lợi tha vô lượng
vô biên luôn luôn hướng về chúng sanh và làm những
việc lợi ích cho họ. Bồ-tát thị hiện đầy đủ ba thân,
đó là Thắng-Ứng-Thân, Liệt-Ứng-Thân,
Tha-Thọ-Dụng-Thân, nên mới đủ diệu dụng độ khắp
chúng sanh trong pháp giới.
Còn
Đại-Thừa Kinh Pháp-Hoa, phẩm Phổ Môn, toàn phẩm kinh
Đức Thích Ca đã khuyên dạy chúng sinh trì tụng, lễ
bái Quán-Thế-Âm thì được phước vô lượng. Về phương
diện cứu khổ, Bồ-tát Quán-Thế-Âm thị hiện 32 thân,
mỗi thân đều thích ứng với tâm cảnh hiện tại và từ
đó có muôn ngàn phương tiện để giải thoát khổ nạn
cho chúng sanh.
- BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM THỊ HIỆN BẰNG CÁCH NÀO
- TRONG KHI CÓ VÔ SỐ CHÚNG SANH CẦU CỨU CÙNG MỘT LÚC ?
Đây
là một nghi vấn chung vì, chúng ta chưa thông hiểu
được nghĩa diệu dụng hiện thân mầu nhiệm
của Bồ-Tát Quán-thế-Âm.
Đã
là diệu dụng nhiệm mầu, thì thử hỏi ngôn ngữ
trong cõi nhân loại chúng ta có thể diễn đạt được
sao ? Nếu, không dùng phương tiện mượn Sự, mượn Lý,
mượn Hình để tỉ dụ thì khó có thể mô ta,㠳ánh
cho thông suốt và hết ngờ vực được. Nghi ngờ là một
cản trở lớn cho lòng chí thành vậy. Tuy nhiên nghi
ngờ mà cầu học để giải trừ tà kiến là một tinh tấn
để mau chóng đến bờ giải thoát.
Diệu
Dụng Mầu Nhiệm của Bồ Tát là tất cả các thứ Sắc Pháp
và Tâm Pháp " Có, Không. Danh, Tướng. Tâm, Cảnh.
Năng, Sở...cho đến xa, gần, dày, mỏng, tối, sáng,
nhiều, ít v.v... tất cả đều không chướng ngại, quí
vị nhận định thỉ dụ sau đây :
Diệu
dụng cứu khổ của Quán-thế-Âm, tỉ như ánh sáng của
Thái-dương (dụ cho thường quán) luôn luôn soi chiếu
khắp mọi nơi, (dụ cho sự thường trực tìm tiếng kêu).
Chúng sanh như là một tấm kiếng hay là một chén nước
trong, tấm kiếng hay chén nước nếu chịu hướng về ánh
sáng Thái dương, thì trong tấm kiếng, chén nước có
hình ảnh và ánh sáng của Thái dương (sự hướng về dụ
cho lòng chí thành) ngời sáng trong đó. Ánh sáng dù
luôn chiếu soi, mà tấm kiếng úp lại, chén nước thì
đậy kín, nhất định hình ảnh Thái dương và ánh sáng
không thể hiển hiện trong đó được. Cũng vậy chúng
sanh không tha thiết chí thành, như đứa con hoang
nghịch cố trốn tránh sự tìm kiếm của Mẹ hiền, sự gặp
mặt tất còn lâu xa.
Một
tỉ dụ khác, diệu dụng Quán Âm như tổng đài phát ra
làn sóng âm thanh hay phát ra hình ảnh. Sự phát đi,
dĩ nhiên luôn luôn thường trực (dụ cho tầm thanh cứu
khổ) còn chúng sanh như những máy thu thanh, thu
hình, máy mở đúng làn sóng, đúng vi ba của tín hiệu
, tất nhiên thấy hình, nghe tiếng (dụ cho lòng chí
thành và giao cảm).
Dù
cho muôn ngàn triệu chiếc máy (vô số chúng sanh)
cùng một lúc bắt đúng tín hiệu tất nhiên muôn ngàn
triệu chiếc máy, cùng một giờ phút, mà cùng có âm
thanh và hình ảnh ( dụ cho cùng niệm và cùng được sự
thị hiện nhiệm mầu). Cũng như thế, tất cả mọi loài
chúng sanh, nếu cùng chí thành hướng về đức
QUÁN-THẾ-ÂM tất Bồ-tát cùng hiển hiện ngay liền khi
đó.
DIỆU DỤNG KHI THỊ HIỆN CỦA BỒ TÁT
QUÁN-THẾ-ÂM
Điểm
này tưởng cũng minh bạch qua các thí dụ ở đoạn trên,
tuy nhiên còn vài thắc mắc khác xin được nêu ra :
Căn
cứ theo các kinh Bi Hoa, Lăng Nghiêm, Tất Đàm, Phổ
Môn, Quán-thế-Âm thọ ký...thì, đức Quán-thế-Âm thị
hiện thật nhiều thân, 32, 33, 38 và tùy vô số loại
mà hiện thân.
Trí
óc con người vốn mang nhiều nghi hoặc, dù đã tin
tưởng Phật Pháp là cao siêu mầu nhiệm, chịu thọ nhận,
tụng niệm tu hành. Nhưng tiếc thay, nghiệp chướng
nghi hoặc đã làm ngăn trở bước đường tiến tu không
ít. Người ta cứ nghi : "Bồ-tát sao không hiện ra
trước mắt cho thấy, cho nghe; bao nhiêu hiện thân
trong kinh Phật, nào Bồ-tát, Phạm-vương, Đế-thích,
Thiên, Long, Đồng-nam, Đồng-nữ v.v...Nhưng khi có
nạn, mình có niệm chí thành lắm chớ, mà nào có thấy
Bồ-tát!?", Sự kiện này, có nhiều người vì lòng tin
sâu đậm và do nhận xét tinh tế quyết chắc có sự tế
độ của Bồ-tát chỉ vì mình mắt phàm, tai tục nên
không thấy Ngài, nếu không có thì không thể nào mình
thoát nạn một càch ly kỳ vậy được. Một số khác, lại
ngờ rằng không biết có phải Bồ-tát đến độ cho mình
hay không ? hay là mình có số hên ? Hay là do phước
ông bà để lại?
Thưa,
nên hiểu rằng, Bồ-tát thị hiện giao cảm trong chúng
ta, trong tất cả mọi người, mọi loài.
Một
đám giặc cướp sắp ồ ạt tấn công qua chiếc thuyền nhỏ
bé, hay trên thuyền sắp có biến cố thê thảm xảy ra...Tại
sao bọn cướp lại đổi ác ý để trở thành thiện niệm ?
Để rồi bọn chúng trở nên hiền từ và rút lui êm đẹp ?
Hơn nữa còn tiếp tế giúp đở ,đó là nhờ trên chiếc
thuyền có nhiều người chí thành niệm danh hiệu đức
Quán-thế-Âm.
Sự
đổi thay tâm ý của kẻ ác, lại không là sự thị hiện
nhiệm mầu để cứu độ hay sao ? Không lẽ Ngài hiện ra
hung thần để đánh chìm ác tặc, rồi mới cho là linh ?
Bà
già ở nhà có một mình lấy rổ vá ra khấu may, mới vài
đường chỉ chẳng may chỉ sút , đôi mắt lem nhem sợi
chỉ không làm sao xâu qua lỗ được, bà thở dài buồn
thảm : "Mẹ hiền Quán-âm ơi con phải làm sao !?". Bà
tủi thân gần muốn rơi lệ lòng hướng về Phật lâm râm
cầu nguyện. Đứa bé chơi từ ngoài xa, nó bổng thấy
thích vào nhà bà già cô quả ấy, và đứa bé đã xâu chỉ
cho bà. Quý vị đã nhận thấy Bồ-tát thị hiện trong
tâm đứa bé ấy chưa ?
Bạn
lái xe đi trên quãng đường thôn dã, không may xe bạn
hư ! Với độc lực và hơn nữa là bạn chưa một lần biết
sửa xe, bạn chỉ còn biết cầu nguyện...Từ bên ngoài
quốc lộ có đôi bạn lại nổi lên ý niệm ham thích được
đi trên con đường hẻo lánh đó, họ gặp bạn và sẵn
sàng ra tay nghĩa hiệp giải nguy cho bạn. Quán-âm
thị hiện là chổ đó. Đó là trưởng giả thân, cũng là
đồng nam, đồng nữ vậy.
Bà
Ấm người làng Sơn-tịnh, mỗi năm một lần bà lên núi
Trà-bồng, hang Thạch Động để lễ Phật, cái hang động
ngày xưa mà thầy Chơn Dung tu hành đã phát kỳ tích ở
đấy. Hú hồn, hôm ấy bà lại gặp phải con cọp, chao ôi
con cọp vằn vện to lớn quá, cọp từ xa gầm thét và
phóng tới, bà chỉ kịp la lên QUÁN ÂM BỒ TÁT rồi bà
bất tỉnh ! Thực ra bà "THÉT" chứ không phải niệm,
nhưng đó là cái thét cấp bách đầy khẩn thiết và sự
chí thành được dồn hết vào cái THÉT đó. Khi tỉnh dậy,
ý niệm đầu tiên của bà là tưởng mình đã chết, một
lát sau khi tri giác về đủ, bà mới cảm nghe hôi hám
và đau rát trên mặt. Thì ra con cọp đã liếm mặt bà
rồi bỏ đi.
Tại
sao cọp bỏ đi, khi miếng mồi ngon trước miệng nó ?
Chính đó là diêu dụng cảm hóa, tế độ của Bồ-tát
Quán-thế-Âm trực tiếp ngay trong tâm ý của con cọp.
Bà
Ấm là người quen (tu) tập chiếu mặt kiếng về ánh
thái dương (thường niệm Quán-thế-Âm) trong giờ phút
cấp bách bà chiếu đúng ánh sáng QUÁN-THẾ-ÂM.
TẠI SAO HÌNH TƯỢNG QUÁN-THẾ-ÂM CHÚNG TA ĐANG
THỜ LẠI MANG VÓC DÁNG NỮ NHÂN, NGÀI LÀ NAM HAY NỮ ?
Chúng ta nên biết mười phương chư Phật không hề có
nữ thân. Trong kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn có câu : "Cần
thích hợp một Phật thân để tế độ, Bồ Tát Quán Thế Âm
liền hiện Phật thân để nói Pháp và tế độ"". Thế thì,
đức Quán-thế-Âm là Bồ-tát, Ngài làm sao có thể hiện
được Phật thân ?
Thực
ra trong kinh ĐẠI-NHẬT và kinh BI-HOA đức Bổn Sư
THÍCH-CA đã từng dạy rằng, đức Quán-Thế-Âm đời quá
khứ đã thành Phật hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI
vào thuở lâu xa vô lượng kiếp về trước. Vì bi nguyện
độ sanh mà Ngài thị hiện làm thân Bồ-tát. Cũng trong
kinh BI-HOA, đức Phật luôn luôn gọi đức Quán-Thế-Âm
là "Thiện-nam-tử" tốt ! Vậy đức Quán-thế-Âm không
thể nào là nữ nhân được.
Căn
cứ theo lịch sử về tôn giáo, nhân gian dật sử, Linh
ứng truyện ký và các lịch sử (tính chất sự tích) của
Trung Hoa từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương đến cận
đại, và Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ ba đến cận kim
thì đức Quán-thế-Âm bồ tát đã từng hóa hiện vào các
thế gia và cả bần gia để ứng cơ hóa độ chúng sanh.
Mượn sự tướng của thế đạo để dẫn dắt nhân gian hướng
thượng quay về chánh đạo. Như Quan-Âm Diệu-Thiện về
đời vua Trang-vương. Quán-âm xách giỏ cá đời vua
Huyền-Tôn nhà Đường, Quán-âm Thị-kính đời nhà Minh,
Quán-Âm linh ứng đời nhà Nguyễn v.v...Tham khảo điều
này cho ta thấy qua các đời phong kiến mọi quyền
hành sanh sát, và làm tao loạn nhân gian hay thịnh
suy cho đất nước, đều nằm trong tay Nam-giới. Tuy
vậy những nữ lưu tuyệt đẹp và xuất sắc vẫn là cao
điểm để đam mê và dễ bị nữ-sắc lung lạc và điều
khiển.
Vậy
sự hiện người nữ nhằm để chuyển hóa tâm xấu ác và
cải thiện những xa hoa trụy lạc, đó là mục tiêu tùy
duyên hóa độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm. Và cũng từ đó
mà tượng, ảnh của Ngài trở nên NỮ MẠO trong một số
quốc gia Á-Châu. Nhưng điều căn bản là chúng ta phải
biết rằng, đó là hình ảnh thị hiện, không nên chấp
là Phật-Thân của Ngài.
BA LỄ VÍA QUÁN ÂM HÀNG NĂM, CÓ KHÁC BIỆT GÌ
HAY KHÔNG ?
Hằng
năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía
Bồ-tát Quán-Thế-Âm thật trang nghiêm vào các ngày :
19/2, 19/6 và 19/9 đều theo âm lịch. Nhưng đa phần
chỉ biết suông là lễ vía Quán-thế-Âm thế thôi ! Thực
ra trong Thiền môn nhật tụng cổ xưa đã ghi rõ :
-
Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN SANH.
-
Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO.
-
Ngày 19/9 là vía QUÁN THẾ ÂM XUẤT GIA.
Mong
rằng bài viết nầy sẽ đem đến cho quý độc giả niềm
tin chân chính và thành khẩn, luôn luôn tưởng niệm
đến danh hiệu QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT để được giao cảm
hằng thường với Bồ-tát, dù tai họa
đến đâu HỮU CẦU TẮC ỨNG (như trường hợp bà Ấm). Hãy
chánh tín, Lời nói của Chư Phật không bao giờ hư
dối.
(Nguồn:TẠNG THƯ PHẬT HỌC)