Không dám nói là tin, nhưng đủ đặt hơn 50% hy vọng cho nền giáo dục được chấn hưng bởi con người có gốc là con nhà có học. Tương lai như thế nào thì xin chờ.
BÀI VIẾT RIÊNG TẶNG BỘ TRƯỞNG GD PHẠM VŨ LUẬN
Ông Phạm Vũ Luận sinh năm 1955, là giáo sư, tiến sĩ kinh tế. Năm 1999-2004, ông là hiệu trưởng ĐH Thương mại. Tháng 6/2004, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo. Tháng 12/2009, ông được phân công làm Thứ trưởng thường trực. Từ tháng 4 đến nay, ông Phạm Vũ Luận đã tạm điều hành Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Chiều 18/6, với hơn 80% số phiếu tán thành, Quốc hội đã thông qua nghị quyết phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm ông Phạm Vũ Luận giữ chức Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo.
Dân tộc: Kinh.
Quê quán: Xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội
Trình độ văn hóa: 10/10
Trình độ chuyên môn: Giáo sư, Tiến sĩ Kinh tế
Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp
Ngày vào Đảng: 17 tháng 5 năm 1987
Ngày chính thức: 17 tháng 5 năm 1988.
Chức vụ hiện nay: Ủy viên Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trang bìa Đại Nam Đồng văn nhật báo
Trong đó THU THANH hay THUNG THANH, đã là một cuộc tranh luận dai dẳng trong học giới suốt hàng chục năm nay, cuốn hút đến các nhà Hán Nôm học lừng danh như: Tảo Trang, Nguyễn Quảng Tuân, Hoàng Hữu Xứng, Nguyễn Tiến Đoàn, Thế Anh.... Tuy nhiên, câu đối ở Đền Kiếp Bạc thì viết là THU THANH, như dưới đây:
XIN GỬI TẶNG GS. BỘ TRƯỞNG PHẠM VŨ LUẬN TOÀN VĂN
BÀI VĂN SÁCH THI ĐÌNH CỦA THÁM HOA VŨ PHẠM HÀM
DO THẠC SĨ ĐINH THANH HIẾU PHIÊN ÂM VÀ DỊCH NGHĨA.
THÀNH THÁI 4 (1892)
THÀNH THÁI TỨ NIÊN NHÂM THÌN KHOA
Chế sách viết:
Trẫm duy: Tích minh vương ác phù thụ lục, quân lâm triệu dân, tất diên lãm anh hiền, hư tâm thính nạp. Cái dĩ cần cầu trị lý, hoằng tế nguyên nguyên, kỳ đạo đại hỹ.
Trẫm dĩ xung linh, toản thừa đại thống. Thâm duy phó thác chi trọng, lẫm thủ thành quy. Tại đình thân huân đại thần ký quần công bách chấp sự diệc giai hiệp tâm khuông tán. Nãi tứ tải vu kim, niên cốc vị thường phong, cương dịch vị tận tĩnh, quan lại vị tận xứng chức, lư diêm vị tận lạc nghiệp. Trẫm đãi đán dĩ tư, vị đắc kỳ yếu. Tư lâm hiên thân sách, ký văn thảng ngôn, phi đồ dĩ ứng cố sự dã.
Phù Bát chính nhất viết Thực, trọng dân sự dã. Truyện viết: “Tam thời bất hại nhi thời hoà niên phong”. Nhiên cảm ứng chi lý thậm vi, nan khả tất trí. Hựu hữu thuỷ hạn, hoặc nhiên chi số, tương như chi hà? Dĩ nhân lực ngôn chi, hậu thế tiện xảo giai viễn quá ư cổ. Nãi Tam đại chi dân, tam niên chi canh thường hữu dư, hậu thế bách thất chi nhập thường bất túc, hà dã? Kim duyên sơn tế hải, thượng đa khả khẩn chi địa. Điển nông, Doanh điền, tự lai vô hiệu, khởi cánh bất khả hành hồ? Nam phương đạo điền thuỷ lợi vi tối yếu. Kỳ tại trung châu, thử thượng hữu ưng lưu ý kinh hoạch phủ dã?
Ngũ phục nhất viết Tuy, vệ dân sinh dã. Tự cổ Ngu, Chu đôn đứ,c thận đức, viễn cận mạc bất phục tòng. Đương thời duy tự duy ca, nhĩ trạch nhĩ điền, quyết hữu do hỹ. Hậu thế hữu cấp cấp vị sinh linh kế, nhi biên phương vị tĩnh giả, hà dã? Kim tả hữu thượng du duyên sơn nhất đái, hoang man thượng vị phục hoá, dữ dật phỉ diệc đa do thử khiếu tụ. Triều đình chú thố, diệc dĩ hữu niên, nãi thời văn xao nhiễu. Tuy hữu đồn bảo nhi năng chỉ sở khu giả hãn hỹ. Bất tri sơn phòng chi ngoại, thượng hữu hà sách khả hành hồ?
Cửu đức hàm sự, dụ tuấn tôn hiền, thử Đường, Ngu, Tam đại chi long dã. Hoặc viết tự Chuyên Húc dĩ lai, bất năng kỷ viễn, nãi kỷ ư cận. Nhiên tắc Cửu quan, Lục điển vi bất túc pháp dư? Hán nhị thiên thạch vãng vãng nhập vi Cửu khanh, Đường chế kinh quan, Đô đốc, Thứ sử, xuất nhập thường quân, quả túc dĩ thành nhất đại chi trị hồ? Kim trung ngoại viên số chúng đa, nhi xứng chức giả thiểu. Thị pháp chi tệ dư? Ức nhân chi nan dư?
Thượng cổ chi thế, nông phục tiên trù chi điền mẫu, mộc cao trạch nhi vịnh cần khổ. Hành hà nhi đắc tư? Mạnh Tử viết: “Hữu bố lũ chi chinh, hữu túc mễ chi chinh, hữu lực dịch chi chinh”. Minh vương chi pháp, bất xuất tư tam giả. Khảo chi Tiểu tư đồ sở tải, lịch lịch khả kỷ. Trịnh Khang Thành sở chỉ, thị dư? Phi dư? Quốc gia thường phú chi ngoại, hữu nguyên đầu, lâm sản, tài mộc chư tạp thuế, nhi thừa hành chi hạ, vị miễn bệnh dân. Tư dục trạch kỳ vô tệ nhi hành chi, đương như hà sử nông mạt tương tư, các đôn bản nghiệp, nhật trăn phồn thịnh hồ?
Thả trọng nông, cật bạo, khoá lại, ái dân, giai vi trị chi yếu. Kim dục niên tuế lũ phong, cương vũ ninh mật, thứ quan lệ tĩnh cung chi tiết, tư dân mông an lợi chi hưu, vu dĩ chính hoá nhật tê, nhạ thăng bình chi phúc. Kỳ đạo hà tòng?
Tử đại phu thông kinh học cổ, tương cứu vu dụng, kỳ các tất ý phu trần, vô hữu sở ẩn, trẫm tương thân lãm yên.
BẢN DỊCH CHẾ SÁCH THI ĐÌNH
KHOA NHÂM THÌN NĂM THÀNH THÁI THỨ TƯ (1892)
Chế sách rằng:
Trẫm nghĩ: Các bậc vua sáng đời xưa giữ cơ đồ, nhận mệnh trời, làm vua triệu dân, ắt phải chiêu vời hiền tài, hư tâm tiếp nhận, để gắng cầu trị lý, giúp khắp lê dân, đạo rất lớn vậy.
Trẫm tuổi còn nhỏ, kế thừa nghiệp lớn, rất nghĩ đến trọng trách phó thác, nghiêm cẩn giữ phép cũ. Các thân huân đại thần ở triều đình và trăm quan đều chung lòng phò tá, nhưng đến nay đã bốn năm, mùa màng chưa được phong đăng, biên cương chưa được yên ổn, quan lại chưa được xứng chức, làng xóm chưa được lạc nghiệp. Trẫm thức đến sáng để suy nghĩ (1), chưa được cốt yếu. Nay ra hiên thân ban sách vấn, mong được nghe lời nói thẳng, không chỉ để ứng đối việc cũ vậy.
Bát chính thứ nhất là cái ăn (2), ấy là trọng việc dân vậy. Truyện có câu rằng: “Ba mùa không hại thì thời hoà, năm được mùa”(3), nhưng lý cảm ứng rất sâu kín, khó có thể nhất định đến thế, lại có lụt lội hạn hán là số ngẫu nhiên thì như thế nào? Nói về sức người thì đời sau khéo léo đều vượt xa đời cổ, nhưng dân thời Tam đại (4) cầy ba năm thường có thừa, đời sau này thu nhập trăm nhà thường không đủ, là tại sao vậy? Nay ở các vùng ven núi ven biển vẫn còn nhiều đất có thể khai khẩn. Điển nông, Doanh điền từ trước đến nay không có hiệu quả, há rút cục không thể thi hành được chăng? Ruộng lúa ở phương nam, thuỷ lợi là quan trọng nhất, còn ở trung châu có nên lưu ý sửa trị hay không?
Trong năm phục thì một là Tuy (5), là để bảo vệ dân chúng. Các triều Ngu, triều Chu từ xưa, tôn sùng đức, thận trọng đức (6), xa gần không đâu không phục theo. Đương thời các việc có thứ tự, phổ vào lời ca, yên ổn cấy cầy ăn ở (7), vốn có nguyên do vậy. Đời sau này gấp gáp tính kế cho sinh linh mà biên thuỳ chưa được yên ổn là tại sao? Nay ở vùng thượng du của Tả, Hữu kỳ (8), một dải ven núi, hoang man còn chưa phục theo giáo hoá, bọn phỉ lẩn trốn cũng phần nhiều tụ tập ở đó. Triều đình sắp đặt cũng đã nhiều năm, nhưng vẫn luôn nghe có quấy rối, tuy có đồn luỹ nhưng ít khi ngăn chặn được. Không biết ngoài sơn phòng còn có kế sách gì có thể thi hành được không?
Người có chín đức đều được giao việc, cầu người tài giỏi, tôn trọng hiền năng (9), đó là thịnh trị đời Đường, Ngu, Tam đại (10). Có người nói: “Từ Chuyên Húc về sau không thể thâu tóm trị lý ở xa, chỉ thâu tóm trị lý ở gần” (11), vậy thì Cửu quan, Lục điển (12) là không đủ để theo chăng? Chức thú lệnh hai ngàn thạch đời Hán thường vào làm Cửu khanh (13). Chế độ đời Đường, quan ở kinh đô, Đô đốc, Thứ sử xuất nhập luôn hài hoà, quả có đủ để nên nền trị của một thời đại chăng? Nay số quan trong ngoài rất nhiều mà người xứng chức thì ít, ấy là tệ của phép chăng? Hay là người khó có được?
Đời thượng cổ, nông dân vui với ruộng đồng, tắm gội ơn huệ mà vịnh ca lao khổ, làm thế nào mới được như thế? Mạnh Tử nói rằng: “Có thuế vải tơ, có thuế thóc gạo, có trưng lao dịch” (14), pháp chế của các vua sáng không ngoài ba điều đó. Khảo trong ghi chép ở Tiểu tư đồ (15) rõ ràng có thể ghi lại. Điều Trịnh Khang Thành (16) chỉ ra là đúng hay là sai? Ngoài thuế thường của quốc gia còn có các tạp thuế đầu nguồn, lâm sản, tài mộc mà kẻ dưới thừa hành không tránh khỏi làm hại dân. Nay muốn chọn điều không có tệ mà thi hành, làm thế nào mới có thể khiến cho nông nghiệp, thương nghiệp giúp đỡ nhau, đều dốc sức vào bản nghiệp, ngày càng đạt đến phồn thịnh?
Các việc trọng nông, trừ bạo, khảo xét quan lại, yêu thương nhân dân đều là cốt yếu làm chính trị. Nay muốn năm luôn được mùa, biên cương yên ổn, trăm quan gắng tiết tháo kính cẩn, dân được hưởng phúc an lợi, để chính trị giáo hoá ngày một tiến lên, đón phúc thăng bình, đạo phải theo như thế nào?
Các sĩ tử đại phu thông kinh học cổ, sẽ suy xét ra việc làm, hãy hết sức phô bày, đừng có che dấu, trẫm sẽ đích thân xem xét.
ĐỆ NHẤT GIÁP ĐỆ TAM DANH
VŨ PHẠM HÀM
Hà Nội – Thanh Oai – Đôn Thư
Hội thí trúng cách đệ nhất danh
Duyệt quyển: Thần Hoàng Hữu Xứng, thần Bùi Quang Tạo phụng nghĩ văn lý tứ phân.
Độc quyển: Thần Đoàn Văn Hội, thần Lương Quy Chính phụng nghĩ văn lý đắc lục phân.
Vương giả cao củng ư mục thanh chi thượng, kỳ sở thị dĩ tủng động thiên hạ giả, tại hồ chế cáo mệnh lệnh đắc kỳ đại thể nhi dĩ. Lễ viết: “Vương ngôn như ty, kỳ xuất như luân. Vương ngôn như luân, kỳ xuất như phất”. Nhân quân chi ngôn dữ sĩ thứ bất đồng. Ngôn thoát ư khẩu, nhi tứ phương truyền chi, tiệp ư phong vũ, cố ngôn bất khả dĩ bất thận dã. Chí ư thí sách nhất sự, vưu thị ngôn giáo chi đại giả. Triều đình dĩ thử thủ nhân, sĩ phu ư thị quan hoá, điển cơ trọng dã.
Phụng ngã Hoàng tổ Dực tôn Anh hoàng đế ngự vũ tam thập dư niên, thân hiền đồ trị, chấn tác văn phong. Mỗi ngộ khoa kỳ, khâm phụng ban đề mục. Hoàng hoàng thiên ngữ, bính nhược tinh nhật. Tuy nhất thời điều đối vị năng tận xứng thánh tâm, nhi quan cảm chi hạ, tranh tự trạc ma, văn thể dĩ chi nhất tân, sĩ tập dĩ chi phi biến. Quốc gia diệc hữu dĩ thu đắc nhân chi hiệu hỹ.
Khâm duy: Hoàng đế Bệ hạ thiên tích trí dũng, thụ thử phi cơ. Tập hy chi học, nhật tựu nguyệt tương. Huấn sắc chi văn, phong hành lôi động. Thảo dã vi thần mỗi dao vọng khuyết đình, bất thăng hoan biện, tư tương cổ vũ. Kim niên cung trị tuế cống, Lễ bộ dĩ thần đẳng tiến, đặc tứ triệu đối. Cái tương thu thái chân tài, dĩ kỳ thực dụng, nhi hữu tư bất năng ngưỡng thể thịnh tâm, phát dương hưu mệnh. Thần đẳng ngu lậu, bất thức đại thể, mạo muội độc trần, thoái nhi tủng dịch. Nãi phụng chí nhân khoan dung, bất nhẫn khiển xích, đặc chuẩn tái thí, dĩ chương thịnh điển. Tư thần đẳng hàm tháo tại đình, ngưỡng thừa thanh vấn, sách chi dĩ trọng nông, cật bạo, khoá lại, ái dân chư đại chính. Đại tai phu ngôn! trước thành mô điển, bao quát trị đạo, châm chước cổ kim. Dĩ thần học thuật thô thiển, hạt tri sở vân. Cố niệm cung tế hy triều, hạnh đắc tá ngọc giai phương thốn địa, dĩ uẩn kỳ để uẩn. Ngu trung cảm kích bội thắng bình nhật. Cẩn thuật kỳ tố sở tụng tập giả dĩ độc vu tả hữu yên nhĩ.
Thần phục độc Chế sách viết: Trẫm duy: Tích minh vương ác phù thụ lục, quân lâm triệu dân, tất diên lãm anh hiền, hư tâm thính nạp. Cái dĩ cần cầu trị lý, hoằng tế nguyên nguyên, kỳ đạo đại hỹ. Trẫm dĩ xung linh, toản thừa đại thống. Thâm duy phó thác chi trọng, lẫm thủ thành quy. Tại đình thân huân đại thần ký quần công bách chấp sự diệc giai hiệp tâm khuông tán. Nãi tứ tải vu kim, niên cốc vị thường phong, cương dịch vị tận tĩnh, quan lại vị tận xứng chức, lư diêm vị tận lạc nghiệp. Trẫm đãi đán dĩ tư, vị đắc kỳ yếu. Tư lâm hiên thân sách, ký văn thảng ngôn, phi đồ dĩ ứng cố sự dã.
Thần ư thử ngưỡng kiến Bệ hạ xử Thành vương chi vị, nhi kiêm Chu Công chi tài. Đãi đán chi tư, thành thiên vạn cổ đế vương chi tâm pháp dã. Bệ hạ chi tâm như thử, tắc kỳ yếu khả đắc nhi ngôn hỹ.
Thần cẩn án: Thư viết: “Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư, duy kỳ khắc tướng thượng đế, sủng tuy tứ phương”. Hựu viết: “Minh vương phụng nhược thiên đạo, kiến bang thiết đô, thụ hậu vương quân công, thừa dĩ đại phu sư trưởng, bất duy dật dự, duy dĩ loạn dân”. Do thử quan chi, thiên sinh chưng dân, bất năng tự trị, nhi ký kỳ sự ư nhân quân. Nhân quân phủ hữu thiên hạ, bất năng dĩ độc trị, nhi phân kỳ chức ư thần hạ. Thị cố tự cổ đế vương chi hưng mạc bất dĩ diên lãm anh hiền, hư tâm thính nạp vi tiên vụ. Kỳ diên lãm anh hiền dã, phi đồ dĩ long hư huệ nhi dĩ, tương cử kỳ chính nhi uỷ chi dã. Kỳ hư tâm thính nạp dã, phi đồ dĩ bác mỹ danh nhi dĩ, tương thái kỳ ngôn nhi hành chi dã. Do thị diên lãm thính nạp chi sở đắc nhi quan sử chi, cố bách quan đắc kỳ chức, vạn sự đắc kỳ tự, dĩ tế nguyên nguyên nhi trăn thượng lý, bất ngoại hồ đạo dĩ vi trị dã. Quân sư chi trách, tất như thị nhi hậu khắc tận hỹ.
Khâm duy: Hoàng đế Bệ hạ quang lý dao đồ, vu kim tứ niên, tư tư cầu trị, nhật thận nhất nhật. Tại đình thân huân đại thần ký quần công bách chấp sự diệc giai hiệp tâm khuông tán. Dĩ kỳ trung tiên đế giả nhi sự Bệ hạ. Khảo chi Chu Dịch, kỳ tượng vi Thái, sở vị “Thượng hạ giao chi kỳ chí đồng dã”. Nghi kỳ hoà khí ứng nhi niên cốc thường phong, đạo tặc tập nhi cương dịch tận tĩnh, tuấn nghệ tại quan nhi quan lại xứng chức, kiềm lê bị trạch nhi ngư diêm lạc nghiệp hỹ. Nãi tứ giả vị năng phi ứng, do trí cần Bệ hạ chi tư giả, thần diệc bất năng vô nghi yên.
Thần thiết tư chi. Phân nhi ngôn chi, tắc hữu tứ giả. Hợp nhi quan chi, tắc kỳ sự thường tương nhân, nhi kỳ cơ hữu sở do trí dã. Cương dịch chi vị tận tĩnh, dĩ lư diêm chi vị năng lạc nghiệp dã. Lư diêm chi vị năng lạc nghiệp, dĩ niên chi vị thường phong dã, nhi kỳ sở dĩ trí thử, tắc tại ư quan lại chi vị tất xứng chức nhi dĩ. Hà dĩ ngôn chi? Phệ mẫu chi gian, Bệ hạ bất năng thân hành khuyến khoá, tắc sở dĩ đốc suất chi giả, kỳ trách tại khuyến nông chi quan. Biên cảnh chi ngoại, Bệ hạ bất năng tự vi khống ngự, tắc sở dĩ hãn vệ chi giả, kỳ trách tại đổng nhung chi quan. Hương lý chi hạ, Bệ hạ bất năng nhân nhân nhi y thực chi, tắc sở dĩ lao lai hoàn định nhi an tập chi giả, kỳ trách tại thân dân chi quan. Kim Thánh sách do hữu quan lại vị tất xứng chức chi ngữ, tắc kỳ tích tệ khả tri hỹ. Thần thiết dĩ vi phương kim chi yếu, duy tại tinh tuyển quan lại nhi dĩ, nhi tinh tuyển quan lại, thậm yếu hữu nhị. Nhất viết thanh nhập sĩ chi lộ dĩ nghiêm kỳ thuỷ. Nhất viết trọng khảo thành chi điển dĩ lệ kỳ chung. Thử giai cổ nhân dĩ hành chi minh nghiệm, nhi bản triều liệt thánh tương thừa, cụ hữu thành pháp chi khả tuân dã.
Thần nguyện Bệ hạ sung đãi đán chi tư, cấp cầu sở dĩ tinh tuyển quan lại chi đạo, tắc tài thành phụ tướng chi đạo tận, nhi thiên địa giao thái chi tượng khả đán tịch ký hỹ.
Phục duy: Bệ hạ lâm hiên thân sách, nhi dĩ phi đồ dĩ hư sự vi ngôn, thử thành vi trị chi yếu dã. Sử quan lại giai năng ngưỡng thể Bệ hạ chi tâm, thiên hạ hà ưu bất trị tai? Thiên hạ chi hoạn, mạc hoạn hồ hư ứng cố sự nhi bất đồ kỳ thành hiệu dã. Khuyến nông chi quan dĩ khuyến khoá vi cố sự nhi bất tận kỳ tâm, đổng nhung chi quan dĩ cầm phòng vi cố sự nhi bất tận kỳ lực, thân dân chi quan dĩ phủ tự vi cố sự nhi bất tận kỳ thành. Thử quan lại sở dĩ vị xứng chức dã. Niên cốc hà do nhi thường phong? Cương dịch hà do nhi tận tĩnh? Lư diêm hà do nhi lạc nghiệp hồ?
Thần nguyện Bệ hạ khuếch sung thử tâm, trước vi minh huấn, thân sức quan lại, sử giai thiếp thiết phụng hành, tắc thứ sự vô bất tựu tự hỹ, vạn dân vô bất đắc sở hỹ, hà chí thượng phiền duệ lự, nhi cấp cấp ư cùng nhật dạ chi tư tai?
Thần phục độc Chế sách viết: Phù bát chính nhất viết thực, trọng dân sự dã. Truyện viết: “Tam thời bất hại nhi thời hoà niên phong”. Nhiên cảm ứng chi lý thậm vi, nan khả tất trí. Hựu hữu thuỷ hạn, hoặc nhiên chi số, tương như chi hà? Dĩ nhân lực ngôn chi, hậu thế tiện xảo giai viễn quá ư cổ. Nãi Tam đại chi dân, tam niên chi canh thường hữu dư, hậu thế bách thất chi nhập thường bất túc, hà dã? Kim duyên sơn tế hải, thượng đa khả khẩn chi địa. Điển nông, Doanh điền, tự lai vô hiệu, khởi cánh bất khả hành hồ? Nam phương đạo điền thuỷ lợi vi tối yếu. Kỳ tại trung châu, thử thượng hữu ưng lưu ý kinh hoạch phủ dã?
Thần thiết duy: Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi thiên. Cơ Tử trần Hoàng phạm Cửu trù, tam viết Bát chính, nhi dĩ Thực cư Hoá dữ Tư đồ, Tư mã, Tư khấu, Tư không, Tân, Sư chi tiên, thành dĩ dân sự vi trọng dã. Tức kỳ tiên chi dĩ “nông dụng” nhất ngữ, ý khả tri hỹ. Cổ chi thánh vương giai tiên thành dân nhi hậu trí lực ư thần. Tuế hữu tứ thời, dụng chi dĩ nông khích nhi bất hại kỳ tam thời, sử đắc tận lực ư điền mẫu, thị cố thời hoà niên phong, nhi khả phụng sinh dĩ cáo dân lực chi phổ tồn dã. Do Quý Lương chi ngôn quan chi, lý thành khả tất nhi vô hoặc bất nhiên giả hỹ. Duy thiên nhân chi tế hữu nan ngôn giả. Hoặc hữu kỳ sự nhi vô kỳ ứng, dĩ vi khả tất, thành nan tất hỹ. Thả thiên tai chi hành, bất hạnh hữu phương, nhiên hạn hựu sở bất miễn hỹ. Nhiên thần thiết dĩ vi nan tất giả thiên nhi khả tất giả tự tại ư nhân dã. Hoặc nhiên giả số nhi đương nhiên giả tự hữu kỳ sự dã. Thần vị kiến hoàng trùng mâu tặc năng tổn Hậu Tắc chi sắc, nhi thất lạo cửu hạn năng hại Nghiêu, Thang chi dân dã. Khổng Tử viết: “Sử dân dĩ thời”. Mạnh Tử viết: “Bất vi nông thời”. Cổ chi nhân giai nhiên, phi độc tuỳ Quý Lương chi ngôn dã. Dịch bất vân hồ “Mộc thượng hữu thuỷ, Tỉnh, quân tử dĩ lạo dân khuyến tướng”. Vi nhân thượng giả, đương thể thử ý dĩ lạo dân nhi bất đoạt kỳ thời. Cảm ứng chi lý sở bất tất ngôn, thuỷ hạn chi tai diệc đương dự vi chi bị, tư khả hỹ.
Dĩ nhân lực ngôn chi. Cổ nhân thuần phác, kỳ ư dân dã bất quá chế điền lý, giáo chi thụ nghệ nhi dĩ. Hậu thế trí xảo nhật sinh, đại điền, khẩn điền, dữ phù hội vi đồ ký, trước vi tập yếu, kỳ tiện xảo giai viễn quá ư cổ. Nghi kỳ dân chi sở nhập, diệc quá ư cổ hỹ. Duy Tam đại chi ư dân, kỳ thụ chi hữu thường số, kỳ thủ chi hữu chính cung, cố dân đắc dĩ nhân thiên chi thời, dụng địa chi lợi. Tam niên chi canh, nhi dư nhất niên chi thực. Tích chí ư cửu niên, nhi dư tam niên chi thực. Tuy hữu thuỷ hạn hung hoang, dân vô thái sắc. Nhược hậu thế tiện xảo tuy quá ư cổ, nhi công dịch diệc phồn ư cổ, phú thuế hựu bội ư cổ. Ký sở dĩ chế dân chi sản, viễn bất cập ư cổ nhân, cố tư dân chung tuế chi kiệt lực, cẩn túc dĩ sung công khoá nhi vô dĩ dụ tư tàng. Nhất ngộ cơ niên, bất miễn nghị chẩn nghị quyên, phân vân vô sách. Tiên nho viết: “Dân sinh Tam đại chi tiền, kỳ mệnh chế hồ quân. Dân sinh Tam đại chi hậu, kỳ mệnh chế hồ thiên”. Thử chi vị dã. Thả khẩn điền tích cốc, thiên hạ chi đại bản dã. Phụng chiểu bản quốc địa hình uyển diên, đông nam cổn nhi tây bắc súc, tam diện hoàn sơn, nhất diện tế hải. Dân sinh kỳ gian, khai khẩn hữu sở vị tận, khả canh chi địa thượng đa. Triều đình lưu tâm bang bản, huệ niệm dân thiên. Điển nông hữu quan, Doanh điền hữu sứ, tiết kinh nghị định thi hành. Nãi đồ hữu hư danh, mang vô thực hiệu, cơ nghi kỳ bất khả hành hỹ.
Thần thiết tư chi. Địa vô di lợi, vương chính chi tối tiên dã. Đồn điền hành ư Hán, doanh điền hành ư Đường, giai hữu thành hiệu, trứ tại phương sách, khởi khả hành ư cổ nhi bất khả hành ư kim hồ? Huống tựu kim nhật sự thế quan chi, hưng địa lợi vưu thị đệ nhất trước. Đông nam tào vận khuyết thiểu, thử vũ hựu nan tất thường hoà, tắc khuyến khoá chi đạo, thành bất khả dĩ bất quảng, ô tại kỳ bất khả hành hồ? Kỳ sở dĩ tự lai vô hiệu giả, phi tha, thần sở vị khuyến khoá chi quan dĩ khuyến khoá vi cố sự, nhi bất tận kỳ tâm giả dã. Đại để duyên sơn chi địa đa thị khao xác, tế hải chi địa hựu đa xích lỗ. Thi công chi thuỷ cố hữu thậm nan. Yếm kỳ nan giả bất gia chi ý, lỗ mãng diệt liệt, cẩu thả tắc trách nhi dĩ. Cầu kỳ như Gia Cát Vũ hầu chi đồn ư Vị Thượng, Quách Tử Nghi chi đồn ư Hà Trung, vị tất hữu kỳ nhân dã. Quan chi vị xứng như thử, an vọng kỳ hữu hiệu hồ?
Thần nguyện Bệ hạ tinh tuyển khuyến nông chi quan, uỷ dĩ điền vụ, giả chi tuế niên, sử chi tướng địa khai thác, tuỳ nghi chiêu mộ. Hoặc dĩ binh đồn, hoặc dĩ dân đồn, vụ yếu tận tâm kinh lý, nhi Bệ hạ dĩ thời tưởng lệ chi, thứ khả vọng kỳ hữu thành hiệu hỹ. Hựu thần văn Thái Tây chư quốc chế khí thậm tinh. Kỳ hữu ích ư nông sự giả, tắc hữu khẩn hoang khí cơ. Tuy tại trăn mãng chi địa, nhất vận kỳ khí, vô bất lập tịch, kỳ thắng ư nhân lực ngưu lực, bất tri kỷ bội. Thử khí hành ư sơn hải chi địa, vưu vi trúng dụng. Thần dục câu cầu kỳ pháp. Đương khai khẩn chi sơ, y thức chuyển vận, sĩ thổ mạch ký tùng, nhưng dụng nhân lực ngưu lực. Thử diệc khuyến khoá chi nhất đạo dã. Nhược phù nam phương đạo điền thuỷ lợi vi tối yếu. Kỳ tại trung châu, chính đương lưu ý kinh hoạch. Đại Vũ câu hức chi pháp, Thành Chu Toại nhân, Tượng nhân chi chế tuy vị khả cự phục, nhi Hán chi Trịnh Quốc cừ, Đường chi Lương Công yển độc bất khả phỏng kỳ ý nhi hành chi hồ?
Thần nguyện ư trung châu chư tỉnh lượng thiết câu cừ dĩ bị súc tiết, thứ khả thu đạo điền chi lợi hỹ.
Thần phục độc Chế sách viết: Ngũ phục nhất viết Tuy, vệ dân sinh dã. Tự cổ Ngu, Chu đôn đức thận đức, viễn cận mạc bất phục tòng. Đương thời duy tự duy ca, nhĩ trạch nhĩ điền, quyết hữu do hỹ. Hậu thế hữu cấp cấp vị sinh linh kế, nhi biên phương vị tĩnh giả, hà dã? Kim tả hữu thượng du duyên sơn nhất đái, hoang man thượng vị phục hoá, dữ dật phỉ diệc đa do thử khiếu tụ. Triều đình chú thố, diệc dĩ hữu niên, nãi thời văn xao nhiễu. Tuy hữu đồn bảo nhi năng chỉ sở khu giả hãn hỹ. Bất tri sơn phòng chi ngoại, thượng hữu hà sách khả hành hồ?
Thần thiết duy: Binh giả, quốc chi vệ dã. Đại Vũ bật thành ngũ phục, kỳ nhất viết Tuy phục, giới ư Điện, Hầu, Yêu, Hoang chi gian. Tam bách lý quỹ văn giáo nhi nhị bách lý phấn vũ vệ, sở dĩ vệ dân chi sinh dã. Dĩ Tuy danh phục, ý cái như thử. Tích giả Ngu đế đôn đức, nhu viễn năng nhĩ nhi man di suất phục. Chu vương thận đức, bất quý dị vật nhi tứ di hàm tân. Đương kỳ thời dã, hữu cửu công chi đổng khuyến, nhi duy tự duy ca, vạn thế vĩnh lại. Hữu tam kỷ chi tiệm ma, nhi nhĩ điền nhĩ trạch, thứ ngoan phi biến, giai nhất đức chi sở cảm dã. Khổng Tử sở vị tu văn nãi dĩ lai viễn nhân giả, thử dã. Ngu, Chu ký viễn, nhi hậu chi ngự nhung giả vô sách hỹ. Hán chi ư Hung Nô, kim tăng kết hảo. Tống chi ư Khiết Đan, tuế thâu tệ bạch. Dữ Đường chi Vị Kiều ước thệ, hương hoả liên minh, giai cấp cấp ư vị sinh linh kế dã. Nguyên kỳ sở tổ giả, Nguỵ Giáng chi thuyết, nhi bất năng cố kỳ cương ngữ, hoà kỳ nhân dân. Đế chi đức quảng vận, vương chi đức viễn sướng, đãi bất như thị chi nạp vũ dã. Nội tu hữu khuyết, tức ngoại ngự vô mưu. Giảo yên giả toại bất khả sử chi vi cách Ngu chi Hữu Miêu, thần Chu chi Túc Thận. Biên phương sở dĩ vị tĩnh, nhi sinh linh diệc bất đắc dĩ an kỳ cư dã.
Kim Bệ hạ thần thánh, hải vũ điện an. Đức uy sở gia, vô viễn phất giới. Trung châu thảo khấu, hoặc xuất thú, hoặc tựu cầm, tiệm dĩ ninh thiếp, bất vi dân bệnh. Duy Tả kỳ chi Quảng Nam, Quảng Ngãi nhĩ tiếp Tà Mi, Thạch Bích chư man, thời kiến tiềm hạ kiếp lược. Hữu kỳ chi Nghệ An, Hà Tĩnh giáp tiếp Tiêm phận, diệc thời kiến xâm bức. Man hoang ký dĩ thử vi phong đồn chi tẩu, dật phỉ diệc dĩ thử vi thử thiết chi khu, thành bất khả bất cức vi chi chú thố dã. Triều đình mệnh quan trấn áp, thiết đồn phòng tiệt, kế lự diệc thâm thả viễn. Nãi man tính bất thường, sao nhiễu như cố. Tuy hữu đồn bảo, nhi năng chỉ sở khu giả hãn hỹ. Thử kỳ cố phi tha, thần sở vị đổng nhung chi quan dĩ cầm phòng vi cố sự nhi bất tận kỳ lực giả dã.
Đại để xung mạo lam chướng, xuất nhập thỉ thạch, phi nhân chi sở lạc dã. Vi Quản Suất giả nhất hữu tự tích kỳ lực, hoặc binh vệ chi bất nghiêm, nhi man nhân hữu mạn dị chi tâm; hoặc xích đôi chi bất cẩn, nhi phỉ đảng hữu giam dẫn chi lộ. Cầu kỳ như Trình Bất Thức chi trấn bắc biên, Lý Quang Bật chi thủ sóc phương, vị dị đa đắc kỳ nhân dã. Quan chi vị xứng như thử, sao nhiễu hà thời chỉ hồ? Cổ lai ngôn biên bị giả, bất xuất vu Phòng chi nhất tự. Thành dĩ thử ngoại vô kỳ sách dã. Triều đình tiền dĩ thiết lập Nam Ngãi sơn phòng, cận hựu thiết lập Nghệ Tĩnh, Quảng Trị sơn phòng. Miếu đường trù hoạch, khả vị toán vô di sách, thần phục hà thuyết yên. Thần sở tri giả, quan bất đắc nhân tắc hữu phòng chi chi danh, nhi vô phòng chi chi thực. Đồn bảo bất miễn hư thiết hỹ. Thâm sơn cùng cốc, kỳ hà dĩ chiêm Bệ hạ chi đức hoá hồ?
Thần nguyện Bệ hạ tinh tuyển đổng nhung chi quan, uỷ dĩ phòng sự, giả chi dĩ tiện nghi, sử chi huấn luyện sĩ tốt. Thân hoạch phong thủ, hoặc mộ dân tỷ tái như Triều Thố chi mưu, hoặc tướng địa đồn điền như Triệu Sung Quốc chi kế, vụ yếu tận lực doanh biện, nhi Bệ hạ dĩ thời kích lạo chi, thứ duyên sơn nhất đái, ngật nhiên trường thành. Hoang man dật phỉ khuy tứ tiềm tiêu, nhi Bệ hạ chi xích tử khả vô tịch phong dạ hoả chi hư kinh hỹ. Dĩ thần thư sinh chi kiến, thực bất xuất thử. Nhược phù dĩ man công man, hoặc dĩ phỉ dụ phỉ, phi vô tha sách, nhi bất túc vi Bệ hạ đạo dã. Ký đắc kỳ nhân tắc thử đẳng kế sách giai kỳ sở ưu vi hỹ.
Thần phục độc Chế sách viết: Cửu đức hàm sự, dụ tuấn tôn hiền, thử Đường, Ngu, Tam đại chi long dã. Hoặc viết tự Chuyên Húc dĩ lai, bất năng kỷ viễn, nãi kỷ ư cận. Nhiên tắc Cửu quan, Lục điển vi bất túc pháp dư? Hán nhị thiên thạch vãng vãng nhập vi Cửu khanh, Đường chế kinh quan, Đô đốc, Thứ sử, xuất nhập thường quân, quả túc dĩ thành nhất đại chi trị hồ? Kim trung ngoại viên số chúng đa, nhi xứng chức giả thiểu. Thị pháp chi tệ dư? Ức nhân chi nan hồ?
Thần thiết duy: Minh vương lập chính, bất duy kỳ quan, duy kỳ nhân. Đường, Ngu chi thời, cửu đức hàm sự, hữu tuyên tam nghiêm lục chi hiền dĩ ngưng thứ tích, sở dĩ trí hoà ninh chi trị. Tam đại chi vương, dụ tuấn tôn hiền, hữu Tam trạch Tam tuấn chi sĩ dĩ trinh bách độ, sở dĩ trí thuần đại nhạ hành chi thịnh. Đường, Ngu, Tam đại chi long, lương dĩ thử dã. Tiền hồ thử giả, văn kỳ thuỷ, hoả, long, điểu, dĩ chi kỷ quan hỹ. Kỳ vi dân sư nhi mệnh dĩ dân sự, tắc tự Chuyên Húc thuỷ dã. Đàm Tử vị kỳ bất năng kỷ viễn, nãi kỷ ư cận, diệc đại khái ngôn kỳ dị ư thượng cổ nhĩ, phi dĩ thị vi đức suy dã. Yếu chi, thiên địa chi khai tịch hữu tiệm, đương nhân văn tiệm trứ chi nhật, quan chế bất khả tập phù hồng hoang, do chi thư khế ký tạo, bất khả dĩ kết thằng trị chi dã, an tại kỳ viễn dữ cận tai. Độc bất quan Ngu Thuấn chi mệnh Cửu quan, Vũ vi Tư không, Khí vi Hậu Tắc, Tiết vi Tư đồ, Cao Dao vi Sĩ sư, Thuỳ vi Cung công, Ích vi Trẫm ngu, Bá Di vi Trật tôn, Hậu Quỳ vi Điển nhạc, Long vi Nạp ngôn, dĩ chi nhi lượng thiên công, toại khả trí vô vi chi trị. Chu Công chi chế Lục điển, Thiên quan Chủng tể viết Trị điển, Địa quan Tư đồ viết Giáo điển, Xuân quan Tôn bá viết Lễ điển, Hạ quan Tư mã viết Chính điển, Thu quan Tư khấu viết Hình điển, Đông quan Tư không viết Sự điển. Dĩ chi nhi xướng Cửu mục, toại khả trí phụ thành chi trị. Thị giai tại Chuyên Húc chi hậu nhi tuỳ thời phân thiết. Thuấn điển, Chu quan toại vi thiên vạn thế kiến quan chi thành pháp, an tại kỳ bất túc pháp hồ? Hán chế nhị thiên thạch hữu trị hành giả nhập vi Cửu khanh. Tư cách tuy nghiêm, do hữu cổ ý, cố lại trị tối vi cận cổ. Nhị thiên thạch như Cung Toại, Hoàng Bá giai xưng tuần lương, cửu khanh như Cấp Ảm, Nhi Khoan giai thuần hậu chính trực. Lại xứng kỳ chức, nhi lư diêm dĩ chi lạc nghiệp. Đường chế kinh quan hữu tài thức giả trừ Đô đốc, Thứ sử. Đô đốc, Thứ sử hữu chính tích giả trừ kinh quan. Xuất nhập thường quân, tự Huyền Tôn thuỷ, toại vi định thức. Cố ngoại chức bất chí thái khinh. Vi kinh quan giả cố năng thập di bổ khuyết, phụ thành quân đức. Vi Đô đốc, Thứ sử giả diệc năng phụng dương nhân phong, tuy bỉ lê thứ. Quan đắc kỳ nhân nhi thái bình dĩ chi thân trí. Tuy bất cảm vọng ư Ngu chi Cửu quan, Chu chi Lục điển, nhi diệc túc dĩ thành nhất đại chi trị hỹ.
Kim Bệ hạ dĩ tri nhân chi minh, uỷ dụng đại thần. Y, Phó tại triều; Phương, Thiệu tại ngoại, đắc nhân chi hiệu khái khả tưởng kiến. Duy thị trung ngoại thứ ty viên số chúng đa, hãnh tiến giả bất vô lạm xuy chi cơ, nhũng thực giả bất vô tố xan chi tiệu. Xứng chức giả thiểu, thành hữu như thánh dụ sở vân hỹ, khởi thị chi tệ dư? Thần dĩ vi pháp phi vô tệ, nhi kỳ tệ dã thực tại ư bất thủ pháp. Ức khởi nhân chi nan dư? Thần dĩ vi nhân cố nan đắc, nhi kỳ nan dã vưu tại ư bất trạch nhân. Phù nội nhi bộ, viện, tự các; ngoại nhi tỉnh, phủ, huyện, châu, thể thống tương thừa, thành pháp cụ tại.
Phụng ngã Thánh tổ Nhân hoàng đế Chính yếu chi hữu thư, nhi thẩm quan trì trọng.
Ngã Dực tôn Anh hoàng đế Quan châm chi hữu chế, nhi khoá lại vưu nghiêm. Trị pháp, trị nhân vị thường thiên phế dã.
Tự bỉnh pháp giả bất năng thủ pháp nhi pháp thuỷ hình kỳ tệ, tự tiến nhân giả bất năng trạch nhân nhi nhân thuỷ kiến kỳ nan hỹ. Kim tương thị kỳ tệ nhi bất vị chi bổ cứu, thính kỳ nan nhi bất vị chi giám biệt dư?
Thần dĩ vi đương hữu dĩ biến thông chi hỹ. Biến thông chi đạo bất ngoại hồ trạch nhân, thủ pháp nhị giả nhi dĩ.
Hà vị trạch nhân? Thần sở vị thanh nhập sĩ chi đồ dĩ nghiêm kỳ thuỷ giả thị dã. Phương kim nhập sĩ chi đồ bàng tạp thậm hỹ. Nội quan do hữu tuần tư, chí ư ngoại quan tắc giáp giai bôn cạnh giả cư kỳ bán, ỷ thế can cầu giả cư kỳ bán. Nhất tỉnh chi trung, cầu kỳ dĩ chính đồ xuất thân giả, đại lược vô kỷ, nhi biền kiên tiếp tích giả giai bất tòng học vấn trung lai dã. Kim tuy bất năng tất hành bãi xích, độc bất khả lược vi tỉnh giảm hồ? Thần thỉnh chiểu trung ngoại quan tịch, như thử loại giả, lượng gia thải giảm. Trừ xác hệ liêm cán cập hữu lao tích giả nhưng lưu chức sự ngoại, dư cách triệt hồi, biệt lân tha viên sung bổ. Chí ư sát cử tất yếu tuần tư, tường thận khảo cật, xác dữ kỳ nhân tương phù, sát khuyết diệc yếu vô du liệp, thứ miễn hữu lạm. Vi giả do Lại bộ thanh tham nghị xử. Như thị tắc nhập sĩ chi đồ bất chí hỗn tạp, nhi dung lục giả bất đắc tá triều đình quan tước vi thê giai hỹ.
Hà vị thủ pháp? Thần sở vị trọng khảo thành chi điển dĩ lệ kỳ chung giả, thị dã. Đại kế hữu lệ, quốc khoá phi bất nghiêm minh. Tham nhũng hữu phạt, lại luật phi bất tường mật. Nhi phụng hành chi hạ, nhất hữu tuần tư, hoặc chí đê ngang kỳ thủ, an khả bất nghiêm vi cấm chỉ hồ? Thần thỉnh thân sắc Thuyên tào, phàm hữu sở củ sở cử, như hữu thực trạng, cụ ư kỳ nhân danh hạ chú minh, bất đắc mông lung ẩn nặc. Ngoại nhi Giám ty diệc y thử lệ biện. Như thị tắc khảo thành chi điển cánh gia điền mật, nhi tham mặc giả bất cảm thị triều đình điển hiến vi cụ văn hỹ.
Nhược phù truất trắc chu thưởng tắc Ngu, Chu chi điển khả kê; nội ngoại xuất nhập tắc Hán, Đường chi sự khả khảo. Thần nguyện Bệ hạ trạch kỳ nghi ư kim giả nhi hành chi, thứ quan lại khả tất kỳ xứng chức hỹ.
Thần phục độc Chế sách viết: Thượng cổ chi thế, nông phục tiên trù chi điền mẫu, mộc cao trạch nhi vịnh cần khổ. Hành hà nhi đắc tư? Mạnh Tử viết: “Hữu bố lũ chi chinh, hữu túc mễ chi chinh, hữu lực dịch chi chinh”. Minh vương chi pháp, bất xuất tư tam giả. Khảo chi Tiểu tư đồ sở tải, lịch lịch khả kỷ. Trịnh Khang Thành sở chỉ, thị dư? phi dư? Quốc gia thường phú chi ngoại, hữu lâm nguyên đầu, lâm sản, tài mộc chư tạp thuế, nhi thừa hành chi hạ, vị miễn bệnh dân. Kim dục trạch kỳ vô tệ giả nhi hành chi, đương như hà sử nông mạt tương tư, các cần bản nghiệp, nhật trăn phồn thịnh hồ?
Thần thiết duy: Thượng cổ chi thế, kỳ chế dân dã hữu thường sản, kỳ thủ ư dân dã thường phú, nhi hựu hữu khuyến tướng chi đạo, bổ trợ chi pháp, cố vi chi nông giả, lạc tiên trù chi điền mẫu, diệc như sĩ thực cựu đức chi danh thị, công thủ cao tằng chi quy củ, mộc dục cao trạch nhi vịnh ca kỳ lao khổ, ưu du hàm vịnh nhi bất tri yếm. Cửu tự chi ca, Thất nguyệt chi thi, ý vị hà thâm trường dã.
Cổ minh vương thủ dân chi pháp, kỳ biệt hữu chi. Bố lũ chi chinh, sản thuế dã, Tải sư chưởng chi. Túc mễ chi chinh, điền thuế dã, Địa quan chưởng chi. Lực dịch chi chinh, thân thuế dã, Quân dịch giả chưởng chi. Giai dụng kỳ nhất nhi hoãn kỳ nhị, phi như Chiến Quốc chi thời, kiêm thủ dĩ bệnh dân dã. Kỳ dữ Hán chi phú pháp, phân vi tam đẳng, đại trí diệc tự bất đồng. Dĩ Mạnh Tử chi ngôn khảo chi, Tiểu tư đồ sở tải, lịch lịch khả kỷ. Bỉ Trịnh Khang Thành sở chỉ, nãi dĩ Hán chế nhi giải Chu quan, ô túc vi cứ hồ? Kỳ phi bất đãi biện hỹ.
Phương kim kinh sự chi hậu, thảng tàng chính truất, thần thường tư kế chi. Triều đình đồng niên chi dụng, trừ Thanh Hoá dĩ nam thập nhị tỉnh điền thổ chính cung chi số, cập tân nghị tăng nhập phiến thuế ngoại, thượng khiếm nhất bách dư vạn, nghi Bệ hạ chi dĩ chư thuế vi vấn dã. Phụng chiểu quốc gia điền thổ chi thuế, tự hữu định ngạch. Kỳ ngoại tắc hữu nguyên đầu, lâm sản, tài mộc thuế, dữ phù diêm thuế, tửu thuế, quế thuế, yến thuế chư tạp thuế, giai sở dĩ dụ tài nguyên nhi ích quốc dụng dã. Nãi thừa hành chi hạ, vạn đoan lạm nhiễu. Hoặc sảo vi bác tước, hoặc âm vi bao lãm, vị miễn bệnh dân, hà dĩ phú quốc? Thần sở vị quan lại vị đắc kỳ nhân giả, thử kỳ nghiệm dã.
Kim dục trạch kỳ vô tệ giả nhi hành chi, thành hữu nan ngôn giả. Hà tắc? Phương kim thái thương cáo quỹ nhi hạ hộ diệc cáo gian hỹ. Công dũ bất sung, nhi tư gia diệc huyền khánh hỹ. Dịch viết: “Tổn hạ ích thượng viết Tổn”, “Tổn thượng ích hạ viết Ích”. Ký viết: “Tài tụ tắc dân tán, tài tán tắc dân tụ”. Kỳ cực như thử. Quyền hồ thời nghi nhi bất vi dân bệnh, khởi bất giát giát hồ kỳ gian tai. Thần thiết dĩ vi dục hành chư thuế tất đắc kỳ nhân nhi hậu khả. Phù duy nhân nhân dĩ quốc vi tâm, dĩ dân vi tâm, nhi bất vị nhất kỷ thân gia chi kế. Dĩ chi chưởng tài dụng tất năng kiệt thành biện lý, thủ ư dân nhất phân tức nhập ư quốc nhất phân, hạ bất chí ư bệnh dân nhi thượng khả dĩ túc quốc. Đường chi Lưu Án lý tài hữu ngũ thiện tức kỳ nhân dã. Thần sở vị thân dân chi quan giả tất như thử nhân phương vi xứng chức dã. Kim thành đắc kỳ nhân, tuy chư thuế tịnh hành, thần bảo kỳ vô tệ hỹ. Như bất đắc kỳ nhân tức lược hành nhất nhị, thần tri kỳ tệ bất thăng ngôn hỹ.
Thần nguyện Bệ hạ tinh tuyển thân dân chi quan, uỷ dĩ thuế vụ, sử chi tuỳ nghi thiết pháp, thứ bất chí bệnh dân, nhi khả dĩ bổ thường phú chi sở dĩ bất túc hỹ. Nhược phù quan sơn phủ hải, Quản Trọng hành chi ư Tề; tiện địch quý thiếu, Lý Khôi hành chi ư Nguỵ. Tuy phi Tam đại chi lương quy, nhi diệc túc quốc dụ dân chi nhất hoạt pháp dã. Thần nguyện Bệ hạ châm chước nhi hành chi, tắc nông mạt tương tư, các đôn bản nghiệp. Lư diêm chi hạ, nhật hữu khởi sắc, nhi phồn phú khả dĩ tiệm trăn hỹ. Chí như Tang Hoằng Dương, Vũ Văn Tử chi đồ cưỡng thủ ư dân dĩ sung tiến phụng, thử nãi Hán, Đường quý thế chi sự, phi duy bất khả hành, diệc sở bất đương ngôn hỹ. Thần nguyện Bệ hạ giới chi.
Thần phục độc Chế sách hựu viết: Phù trọng nông, cật bạo, khoá lại, ái dân, giai vi trị chi yếu. Kim dục niên tuế lũ phong, cương vũ ninh mật, thứ quan lệ tĩnh cung chi tiết, tư dân mông an lợi chi hưu, vu dĩ chính hoá nhật tê, nhạ thăng bình chi phúc. Kỳ đạo hà tòng?
Tử đại phu thông kinh học cổ, tương cứu vu dụng, kỳ các tất ý phu trần, vô hữu sở ẩn, trẫm tương thân lãm yên.
Thần ư thử ngưỡng kiến Bệ hạ cầu trị chi ân, hiếu sĩ chi đốc, cố hình chư ngọc dụ như thị kỳ truân thiết dã.
Thần tiền ký dĩ tinh tuyển quan lại vi thứ sự chi yếu hỹ, nhi kỳ đại yếu tắc hữu tại yên. Thần thiết dĩ vi tại ư Bệ hạ đãi đán chi nhất tâm nhi dĩ. Phù đãi đán chi tâm, hà tâm dã? Kính thiên chi tâm dã, pháp tổ chi tâm dã, thể thần chi tâm dã, tử dân chi tâm dã. Dịch chi “tự cường bất tức”, Thư chi “kính dĩ tác sở”, Thành Thang chi nhật tân hựu tân, Vũ vương chi kính thắng nghĩa thắng, giai thử tâm chi tồn dã.
Bệ hạ ký hữu thử tâm, nhi trì thủ chi, nhi suy quảng chi. Kim nhật như thị, minh nhật như thị, nhật nhật diệc như thị, tắc Bệ hạ chi sở vấn tứ giả khả dĩ bất lao nhi lý hỹ.
Thần thỉnh phân nhi ngôn chi. Bệ hạ dục niên tuế chi lũ phong, thần nguyện suy đãi đán chi tâm dĩ hành trọng nông chi chính. Thư chi Vô dật, Thi chi Thần công giai kỳ sự dã. Trọng nông chi chính ký cử, tắc thuận khí thành tượng, nhi “Đa thử đa đỗ” chi ca khả điệp vịnh hỹ.
Bệ hạ dục cương vũ chi ninh mật, thần nguyện suy đãi đán chi tâm dĩ hành cật bạo chi chính. Dịch chi trừ nhung, Thư chi cật binh, giai kỳ sự dã. Cật bạo chi chính ký cử, tắc hà viễn chấn hoá, nhi “Tái tập tái cao” chi thập khả trùng canh hỹ.
Bệ hạ dục thứ quan lệ tĩnh cung chi tiết, thần nguyện suy đãi đán chi tâm dĩ hành khoá lại chi chính. Ngu thư chi Tam tải khảo tích, Chu quan chi Lục kế tệ lại, giai kỳ sự dã. Khoá lại chi chính ký cử, tắc biểu đoan nhi ảnh chính, bách nhĩ hữu Cao dương chi tháo hỹ.
Bệ hạ dục tư dân mông an lợi chi mỹ, thần nguyện suy đãi đán chi tâm dĩ hành ái dân chi chính. Khổng Tử chi ngôn kính tín tiết ái, Mạnh Tử chi ngôn nông tang giáo dưỡng, giai kỳ sự dã. Ái dân chi chính ký cử, tắc phong hành nhi thảo yển, vạn phương vô Hoàng điểu chi ta hỹ.
Phù như thị tắc niên cốc thường phong, cương dịch tận tĩnh, quan lại xứng chức, lư diêm lạc nghiệp, dĩ tê thế đạo ư thăng bình, dĩ diễn ngã quốc gia ức vạn niên vô cương chi nghiệp. Hoán hồ vĩ tai!
Thần sơ học tân tiến, võng thức kỵ huý, can mạo thần nghiêm, bất thăng chiến lật chi chí.
Thần cẩn đối.
ĐỆ NHẤT GIÁP ĐỆ TAM DANH
VŨ PHẠM HÀM
Đôn Thư – Thanh Oai – Hà Nội
Duyệt quyển: Thần Hoàng Hữu Xứng, thần Bùi Quang Tạo kính đề nghị văn lý bốn phân.
Độc quyển: Thần Đoàn Văn Hội, thần Lương Quy Chính kính đề nghị văn lý sáu phân.
Bậc vương giả cao ngự ngôi trời, cái dựa vào để chấn động thiên hạ là ở chế cáo mệnh lệnh được đại thể mà thôi. Kinh Lễ có câu rằng: “Lời của vua như ty mà xuất ra như luân, lời của vua như luân mà xuất ra như phất” (17). Lời của vua khác với sĩ dân. Lời nói ra miệng mà truyền ra bốn phương, nhanh hơn mưa gió, cho nên lời nói không thể không thận trọng. Cho đến một việc thí sách lại là việc lớn của giáo hoá bằng lời. Triều đình qua đó mà chọn người, sĩ phu qua đó mà xem giáo hoá, điển chế cực long trọng vậy.
Vâng Hoàng tổ Dực tông Anh hoàng đế ta (18), trị nước hơn ba mươi năm, thân hiền, mưu trị, chấn tác văn phong. Mỗi khi gặp khoa thi, kính vâng ban xuống đề bài, rực rỡ lời trời, rạng ngời như mặt trời, sao sáng. Tuy nhất thời đối đáp chưa thể xứng được với thánh tâm, nhưng dưới sự quan cảm, tranh nhau tự rũa mài, văn thể nhờ thế mà đổi mới, sĩ tập nhờ thế mà đổi thay, quốc gia cũng có hiệu quả được người.
Kính nghĩ: Hoàng đế Bệ hạ trời ban trí dũng, nhận cơ nghiệp lớn, thánh học nối sáng, ngày càng tiến thêm (19). Văn huấn văn sắc như gió lướt sấm động. Vi thần nơi thảo dã luôn xa trông cửa khuyết, khôn xiết mừng vui, riêng tự cùng nhau cổ vũ. Năm nay kính gặp tuế cống, bộ Lễ đưa chúng thần lên, đặc cách ban gọi vào đối đáp (20). Đại khái muốn thu nạp chân tài để mong thực dụng, mà Hữu ty (21) không thể kính cẩn thể theo thịnh tâm, phát dương mệnh tốt. Chúng thần ngu lậu, không biết đại thể, mạo muội tâu nhàm, lui về mà sợ hãi. Lại vâng chí nhân khoan dung, không nỡ khiển trách, đặc chuẩn cho thi lần nữa, để tỏ thịnh điển.
Nay chúng thần đều đến điện đình, kính vâng ban hỏi. Sách vấn hỏi về các việc chính trị lớn như trọng nông, trừ bạo, khảo xét quan lại, yêu thương dân chúng. Lớn thay lời truyền! Viết nên Điển, Mô (22), bao quát trị đạo, châm chước xưa nay. Xét thần học thuật thô thiển, đâu biết nói gì. Nhưng lại nghĩ được gặp triều đại thịnh sáng, may được gần bệ ngọc trong gang tấc, để tỏ lòng uẩn súc. Lòng ngu cảm kích, hơn hẳn ngày thường, kính cẩn thuật lại những điều vốn được học tập để trình nhàm với tả hữu mà thôi.
Thần cúi đọc Chế sách rằng: Trẫm nghĩ: Các bậc vua sáng đời xưa giữ cơ đồ, nhận mệnh trời, làm vua triệu dân, ắt phải chiêu vời hiền tài, hư tâm tiếp nhận, để gắng cầu trị lý, giúp khắp lê dân, đạo rất lớn vậy.
Trẫm tuổi còn nhỏ, kế thừa nghiệp lớn, rất nghĩ đến trọng trách phó thác, nghiêm cẩn giữ phép cũ. Các thân huân đại thần ở triều đình và trăm quan đều chung lòng phò tá, nhưng đến nay đã bốn năm, mùa màng chưa được phong đăng, biên cương chưa được yên ổn, quan lại chưa được xứng chức, làng xóm chưa được lạc nghiệp. Trẫm thức đến sáng để suy nghĩ, chưa được cốt yếu. Nay ra hiên thân ban sách vấn, mong được nghe lời nói thẳng, không chỉ để ứng đối việc cũ vậy.
Thần qua đây kính thấy Bệ hạ ở địa vị Thành Vương, gồm cả tài Chu Công (23), thức đến sáng để suy nghĩ, thực là tâm pháp đế vương muôn thuở vậy. Tấm lòng Bệ hạ như thế thì cốt yếu có thể nói được vậy.
Thần kính xét Kinh Thư có câu: “Trời giúp cho dân, đặt ra vua, đặt ra thầy vì những bậc ấy có thể giúp đỡ thượng đế yêu mến vỗ yên bốn phương” (24). Lại có câu: “Bậc vua sáng vâng theo đạo trời, dựng nước đặt đô, lập ra vua, đại phu sư trưởng thuận thừa, không để nhàn dật, mà chỉ để trị dân” (25). Từ đó mà xem thì trời sinh muôn dân không thể tự trị mà gửi gắm công việc cho người làm vua. Người làm vua trị vì muôn nước không thể riêng mình trị mà chia chức cho thần hạ. Vì thế từ xưa đế vương dấy lên, không ai không lấy việc chiêu vời hiền tài, hư tâm tiếp nhận làm việc trước hết. Sự chiêu vời hiền tài không phải chỉ để thêm ơn huệ hão, mà là đem chính trị để giao cho họ. Sự hư tâm tiếp nhận không phải chỉ để rộng thêm tiếng tốt, mà phải chọn lựa lời nói để thi hành. Từ việc được qua chiêu vời tiếp nhận mà dùng họ làm quan, cho nên trăm quan được xứng chức, muôn việc được thứ tự, để giúp khắp lê dân mà lên đến cực trị, không ngoài Đạo để thi hành Trị vậy. Trách nhiệm của bậc vua bậc thầy ắt phải như thế thì mới trọn vẹn.
Kính nghĩ: Hoàng đế Bệ hạ rực rỡ ngự trị cơ đồ quý báu đến nay đã bốn năm, gắng gỏi cầu trị, ngày càng thận trọng. Các thân huân đại thần ở triều đình và trăm quan đều chung lòng phò tá, đem lòng trung với tiên đế để thờ Bệ hạ. Khảo trong Chu Dịch thì đó là tượng quẻ Thái, là cái gọi là “Trên dưới giao hoà mà cùng chung chí” (26) vậy. Lẽ nên hoà khí ứng mà mùa màng phong đăng, trộm cướp yên mà biên cương ổn định, người tài giỏi làm quan mà quan lại xứng chức, dân đen hưởng ơn huệ mà làng xóm lạc nghiệp. Thế mà bốn điều đó chưa thể ứng được, đến nỗi Bệ hạ phải nặng lòng lo lắng. Tuy thần cũng không thể không có nghi ngờ nhưng thần cũng trộm suy nghĩ về việc đó, Chia ra mà nói thì có bốn điều, hợp lại mà xem thì các việc thường dựa vào nhau mà cái cơ là có chỗ xuất phát. Biên cương chưa yên ổn là vì làng xóm chưa lạc nghiệp, làng xóm chưa lạc nghiệp là vì mùa màng chưa phong đăng, mà nguyên nhân dẫn đến thế là ở chỗ quan lại chưa hẳn được xứng chức mà thôi. Tại sao lại nói như vậy? Ở nơi đồng ruộng, Bệ hạ không thể đích thân đi khuyến khoá, vậy thì để đốc suất, trách nhiệm là ở quan Khuyến nông. Ngoài bờ cõi, Bệ hạ không thể tự đi ngăn chống, vậy thì để ngăn chống, trách nhiệm là ở quan Đổng nhung (27). Dưới làng xóm, Bệ hạ không thể cấp cơm áo cho từng người một, vậy thì để chiêu vời, an ủi, định yên, tụ họp dân, trách nhiệm là ở chức quan thân dân (28). Nay sách vấn của Thánh thượng còn có câu: “quan lại chưa xứng chức” thì tích tệ có thể biết được vậy. Thần trộm cho rằng việc cốt yếu ngày nay chỉ ở tinh tuyển quan lại mà thôi. Mà tinh tuyển quan lại, cốt yếu có hai điều. Một là làm trong sạch con đường vào làm quan để nghiêm chỗ bắt đầu, hai là coi trọng điển chế khảo xét thành tích để khuyến khích kết cục. Đó đều là những chứng nghiệm rõ ràng mà người xưa đã thi hành, mà liệt thánh của bản triều nối nhau (29), phép tắc đầy đủ có thể noi theo. Thần mong Bệ hạ đem tấm lòng lo lắng sớm khuya mà kíp cầu cách thức để tinh tuyển quan lại, như vậy thì trọn đạo tài thành phụ tướng (30), mà cảnh tượng trời đất giao hoà hanh thông có thể sớm tối mưu tính được.
Cúi nghĩ: Bệ hạ ra hiên thân ban sách vấn, mà nói rằng không chỉ ứng đối việc cũ, như thế thực là cốt yếu của việc làm chính trị vậy. Nếu như quan lại đều có thể kính thể theo tấm lòng của Bệ hạ thì thiên hạ có lo gì không trị. Nỗi lo của thiên hạ không gì bằng chỉ ứng phó hão việc cũ mà không mưu tính thành hiệu. Quan Khuyến nông coi khuyến khoá là việc cũ mà không hết lòng, quan Đổng nhung coi đề phòng cầm bắt là việc cũ mà không hết sức, quan thân dân coi chăm lo dân chúng là việc cũ mà không tận thành, đó là lý do quan lại chưa xứng chức vậy. Như thế thì mùa màng do đâu mà phong đăng? Biên cương do đâu mà yên ổn? Làng xóm do đâu mà lạc nghiệp? Thần mong Bệ hạ mở rộng tấm lòng ấy, đặt làm lời dạy rõ ràng, sức cho quan lại khiến cho đều thiết thực làm việc thì các việc sẽ đều thông thuận, muôn dân đều an phận, làm gì còn phiền đến Thánh thượng phải lo lắng mà gấp gáp suy nghĩ suốt đêm ngày?
Thần cúi đọc Chế sách rằng: Bát chính thứ nhất là cái ăn, ấy là trọng việc dân vậy. Truyện có câu rằng: “Ba mùa không hại thì thời hoà, năm được mùa”, nhưng lý cảm ứng rất sâu kín, khó có thể nhất định đến thế, lại có lụt lội hạn hán là số ngẫu nhiên thì như thế nào? Nói về sức người thì đời sau khéo léo đều vượt xa đời cổ, nhưng dân thời Tam đại cầy ba năm thường có thừa, đời sau này thu nhập trăm nhà thường không đủ, là tại sao vậy? Nay ở các vùng ven núi ven biển vẫn còn nhiều đất có thể khai khẩn. Điển nông, Doanh điền từ trước đến nay không có hiệu quả, há rút cục không thể thi hành được chăng? Ruộng lúa ở phương nam, thuỷ lợi là quan trọng nhất, còn ở trung châu có nên lưu ý sửa trị hay không?
Thần trộm nghĩ: Nước lấy dân làm gốc, dân lấy cái ăn làm trời (31). Cơ Tử điều trần chín trù Hồng phạm, trù thứ ba là Bát chính, mà lấy cái ăn để lên trên của cải và Tư đồ, Tư mã, Tư khấu, Tư không, tiếp tân, quân đội; thực coi việc dân là trọng. Xem mở đầu bằng một câu “gắng dùng” (32) thì ý có thể biết được vậy. Các bậc thánh vương đời cổ đều trước hết hoàn thành việc dân rồi sau mới dốc sức vào việc thần. Một năm có bốn mùa dùng vào lúc nông nhàn, không hại ba mùa, khiến cho được hết sức vào việc ruộng đồng, vì thế thời hoà, năm được mùa, rồi có thể dâng vật tế để kính cáo rằng sức dân còn khắp. Từ lời của Quý Lương (33) mà xem thì lý thực ắt như thế mà không có gì không thế vậy. Nhưng trong khoảng trời người cảm ứng, có điều khó nói. Hoặc có khi có việc mà không có ứng, cho rằng có thể ắt thế, thực khó nhất định thế vậy. Vả lại thiên tai lưu hành, không may có nơi bị, lụt lội hạn hán là điều không tránh được. Nhưng thần cho rằng khó nhất định là trời mà có thể nhất định được là tự ở người. Số ngẫu nhiên mà tự có việc đương nhiên. Thần chưa từng thấy hoàng, trùng, mâu, tặc có thể làm hại đến việc gặt của Hậu Tắc (34), mà chín năm lụt bảy năm hạn có thể làm hại đến dân của Thành Thang (35). Khổng Tử nói rằng: “Sai khiến dân theo thời” (36). Mạnh Tử nói rằng: “Không trái thời nhà nông” (37), người xưa đều như thế, không chỉ riêng lời của Tuỳ Quý Lương vậy. Kinh Dịch chẳng đã nói: “Trên mộc có thuỷ là tượng quẻ Tỉnh, người quân tử theo đó mà yên ủi dân, khuyến khích sự giúp đỡ” (38). Làm người bề trên nên thể theo ý đó để vỗ về dân mà không đoạt thời vụ của họ. Lý cảm ứng có thể là điều không nhất định phải nói, mà tai hại lụt lội hạn hán cũng nên dự bị, như thế mới được.
Nói về sức người, người đời xưa thuần phác, đối với dân chẳng qua định chế độ ruộng đất, làng xóm, dạy họ trồng trọt, chăn nuôi mà thôi. Đời sau này trí xảo ngày một nhiều, thay ruộng, khai khẩn ruộng, cùng với vẽ làm đồ ký, soạn làm tập yếu, sự tiện lợi khéo léo vượt xa đời cổ, đáng lẽ thu nhập của dân phải hơn đời cổ. Duy đời Tam đại đối với dân, trao cho họ có số thường, lấy của họ có chính cung (39), cho nên người ta có thể dựa vào thời trời, lợi dụng lợi đất, cày ba năm thì thừa cái ăn một năm, tính đến chín năm thì thừa cái ăn ba năm. Tuy có lụt lội, hạn hán nhưng dân cũng không có vẻ đói. Còn như đời sau thuận lợi khéo léo, tuy vượt xa cổ nhân, nhưng công việc lao dịch cũng nhiều hơn thời cổ, thuế má gấp đôi đời xưa, cách thức chế định sản nghiệp cho dân kém xa người xưa, cho nên dân quanh năm kiệt sức chỉ đủ để nộp cho nhà nước mà không có cái gì để dự trữ riêng. Một khi gặp năm đói, không tránh khỏi bàn tha thuế, bàn phát chẩn, rối tung không có kế sách. Tiên nho nói rằng: “Dân sinh vào trước đời Tam đại thì mệnh chế định ở vua, dân sinh sau thời Tam đại thì mệnh chế định ở trời” (40), là nói về điều ấy vậy. Vả lại khai khẩn ruộng đất, tích trữ thóc gạo là gốc lớn của thiên hạ. Vâng xét nước ta địa thế quanh co, đông nam rộng mà tây bắc hẹp, ba mặt núi vây quanh, một mặt sát biển, dân sống trong khoảng đó, khai khẩn có chỗ chưa hết, đất đai có thể cầy cấy còn nhiều. Triều đình lưu tâm đến gốc của nước, nghĩ sâu đến dân trời, Điển nông có chức quan, Doanh điền có chức sứ, đã bàn bạc quyết định thi hành, nhưng chỉ có hư danh, mịt mờ không có thực hiệu, ngờ rằng không thể thi hành được.
Thần trộm suy nghĩ về việc này. Không để sót lợi đất là điều trước hết của chính trị vương giả. Phép đồn điền thi hành ở đời Hán, phép doanh điền thi hành ở đời Đường, đều có thành hiệu, ghi trong sử sách, há có thể thi hành ở đời xưa mà không thể thi hành ở đời nay hay sao? Vả lại xem sự thế ngày nay thì hưng địa lợi là việc thứ nhất. Phía đông nam vận chuyển thiếu, nắng mưa lại không điều hoà, nên đạo khuyến khoá thực không thể không mở rộng, sao lại không thể thi hành? Nguyên nhân mà trước nay không có hiệu quả, không có gì khác, thần cho rằng quan Khuyến nông coi khuyến khoá là việc cũ mà không hết lòng vậy. Đại để đất vùng ven núi phần nhiều bạc màu, đất vùng ven biển lại nhiều đất mặn, bắt đầu dụng công cố nhiên là rất khó. Ngại sự khó, không lưu tâm, chỉ làm qua loa vụn vặt, cẩu thả tắc trách mà thôi. Cầu được như Gia Cát Vũ hầu đồn ở Vị Thượng (41), Quách Tử Nghi đồn ở Hà Trung (42), chưa hẳn đã có được người như thế. Quan chưa xứng chức như vậy, sao có thể mong có hiệu quả?
Thần mong Bệ hạ tinh tuyển quan Khuyến nông, giao cho việc ruộng đất, gia cho thời hạn, cho họ xem đất khai thác, tuỳ ý triệu mộ, hoặc dùng quân làm đồn điền, hoặc dùng dân làm đồn điền, cốt ở hết lòng trị lý, mà Bệ hạ theo thời khen thưởng khuyến khích, ngõ hầu có thể mong thành hiệu.
Thần lại nghe: Các nước Thái Tây (43) chế tạo khí cụ rất tinh vi mà có ích với nông nghiệp thì có máy khai hoang. Dù là đất gai góc rậm rạp, chỉ cần máy chạy một lần lập tức vỡ ra, hơn sức người sức trâu không biết bao nhiêu lần. Loại máy ấy dùng ở vùng núi, vùng biển lại càng đắc dụng. Thần muốn xin mua, theo phép ấy, lúc ban đầu cần khai khẩn thì theo cách thức mà vận hành máy, để sau khi mạch đất đã tơi thì lại dùng sức người, sức trâu. Đó cũng là một cách khuyến khích, giúp đỡ vậy. Cho đến việc thuỷ lợi ở ruộng lúa phương nam là quan trọng nhất, còn ở trung châu cũng cần phải lưu ý sắp xếp. Chế độ kênh mương của Đại Vũ (44); phương pháp của Tượng nhân, Toại nhân đời Thành Chu (45), tuy chưa thể khôi phục ngay được, nhưng kênh Trịnh Quốc đời Hán, đập Lương Công đời Đường (46), há không thể theo ý ấy mà thi hành sao? Thần xin ở các tỉnh trung châu, tính toán đào kênh mương để phòng bị chứa nước, thoát nước, ngõ hầu mới có thể thu được lợi ở ruộng lúa.
Thần cúi đọc Chế sách nói: Trong năm phục thì một là Tuy, là để bảo vệ dân chúng. Các triều Ngu, triều Chu từ xưa, tôn sùng đức, thận trọng đức, xa gần không đâu không phục theo. Đương thời các việc có thứ tự, phổ vào lời ca, yên ổn cấy cầy ăn ở, vốn có nguyên do vậy. Đời sau này gấp gáp tính kế cho sinh linh mà biên thuỳ chưa được yên ổn là tại sao? Nay ở vùng thượng du của Tả, Hữu kỳ, một dải ven núi, hoang man còn chưa phục theo giáo hoá, bọn phỉ lẩn trốn cũng phần nhiều tu tập ở đó. Triều đình sắp đặt cũng đã nhiều năm, nhưng vẫn luôn nghe có quấy rối, tuy có đồn luỹ nhưng ít khi ngăn chặn được. Không biết ngoài sơn phòng còn có kế sách gì có thể thi hành được không?
Thần trộm nghĩ: Quân đội là bảo vệ cho nước, Đại Vũ đặt thành Ngũ phục, trong đó một là Tuy phục, nằm ở giữa các cõi Hầu, Điện, Yêu, Hoang. Ba trăm dặm thi hành văn giáo, hai trăm dặm phấn chấn võ vệ (47), là để bảo vệ cuộc sống của dân. Lấy chữ Tuy (yên ổn) đặt tên cho cõi, ý đại khái là như thế. Xưa vua Ngu tôn sùng đức, mềm dẻo với người ở xa, vỗ về người ở gần mà man di kéo nhau về thần phục (48). Vua Chu thận trọng đức, không nhận cống vật lạ mà bốn cõi man di đều đến chầu (49). Vào lúc đó, khuyến khích đốc suất chín công việc mà đều trật tự, phổ vào lời ca, muôn đời mãi được nhờ (50). Trong ba kỷ dần dần rèn dũa mà dân yên ổn cầy cấy, ăn ở, bọn ngoan ngu đều thay đổi (51), đó đều là sự cảm hoá của đức vậy. Điều Khổng Tử nói rằng: “Sửa văn đức để chiêu vời người ở xa” (52) là như thế vậy. Thời Ngu, thời Chu đã xa rồi, mà sau này chống nhung không có kế sách. Nhà Hán đối với Hung Nô, dùng vàng lụa kết giao hảo. Nhà Tống đối với Khiết Đan, hàng năm phải tặng vải lụa. Nhà Đường minh ước ở Vị Kiều, kết tình hương lửa, đều gấp gáp tính kế cho sinh linh. Suy đến ngồn gốc là từ thuyết của Nguỵ Giáng (53), mà không biết giữ vững bờ cõi, hoà hợp chúng dân. Đức của bậc đế vận hành rộng lớn, đức của bậc vương lan ra xa (54), không phải chịu khinh nhờn như thế. Tu chỉnh bên trong còn thiếu thì phòng thủ bên ngoài không có mưu. Giảo quyệt thì không thể khiến cho như Hữu Miêu đến thần phục nhà Ngu, Túc Thận đến thần phục nhà Chu (55). Đó là nguyên nhân biên cương chưa yên mà sinh linh cũng chưa được an cư vậy.
Nay Bệ hạ thần thánh, bờ cõi vững yên, uy đức ban ra, không nơi xa nào không đến thần phục. Bọn thảo khấu ở trung châu, kẻ thì tự thú, kẻ thì bị bắt, dần dần đã yên ổn, không là cái hại cho dân nữa. Duy có các tỉnh Tả kỳ như Quảng Nam, Quảng Ngãi gần sát với bọn mọi Tà My, Thạch Bích, thường bị ngầm cướp bóc. Các tỉnh Hữu kỳ như Nghệ An, Hà Tĩnh tiếp giáp địa phận Tiêm La cũng thường bị xâm lấn áp chế. Đặt đồn đề phòng ngăn chặn, mưu kế thực sâu xa, nhưng tính bọn man di thất thường, vẫn quấy nhiễu như cũ. Tuy có đồn luỹ nhưng rất ít có thể ngăn chặn được. Duyên cớ ấy không gì khác, thần cho rằng quan Đổng nhung coi cầm bắt phòng giữ là việc cũ mà không hết sức vậy. Đại để ra vào nơi lam chướng, xông pha trong mũi tên hòn đạn, không phải là điều mà người ta thích vậy. Là kẻ Quản suất, một khi tự tiếc sức, hoặc binh vệ không nghiêm mà bọn hoang man có lòng kiêu mạn, hoặc giả đồn luỹ không cẩn trọng mà bọn phỉ có một đường lách vào. Cầu được như Trình Bất Thức (56) trấn giữ biên giới phía bắc, như Lý Quang Bật (57) giữ phương bắc, không dễ có được người như thế. Quan lại chưa xứng chức như thế, quấy rối đến bao giờ mới có thể ngăn được? Từ xưa đến nay nói về phòng bị biên giới không ngoài một chữ Phòng. Thực ra ngoài đó không có kế sách gì kỳ lạ. Triều đình trước đã thiết lập Nam Ngãi sơn phòng, gần đây lại thiết lập Nghệ Tĩnh, Quảng Trị sơn phòng. Miếu đường bàn bạc, có thể gọi là tính toán không còn cách nào sót. Điều mà thần biết, quan không được người xứng chức thì dù cái tên là phòng nhưng không có thực chất của việc phòng, các đồn luỹ không tránh khỏi chỉ đặt hão mà thôi. Ở thâm sơn cùng cốc, nhờ vào đâu mà được thấm nhuần đức hoá đây?
Thần mong Bệ hạ tinh tuyển chức quan Đổng nhung, giao cho việc đề phòng, cho họ được tiện nghi, khiến họ huấn luyện sĩ tốt, mưu tính giữ gìn. Hoặc mộ dân ra biên ải như mưu của Triều Thố (58), hoặc xem đất lập đồn điền như kế của Triệu Sung Quốc (59), cốt phải hết sức làm việc, mà Bệ hạ theo thời vỗ về khích lệ, ngõ hầu một dải ven núi sẽ sừng sững như trường thành, bọn hoang man nghịch phỉ lẩn trốn sẽ ngầm mất đường nhòm ngó, mà con đỏ của Bệ hạ không bị kinh hãi vì chiến tranh.
Với kiến thức của kẻ thư sinh như thần, thiết tưởng cũng không ra ngoài những điều đó. Còn như dùng người man đánh người man, hoặc dùng phỉ dụ phỉ, không phải là không có kế sách khác, nhưng không đủ để nói với Bệ hạ. Đã được người thì những kế sách ấy đều làm tốt được.
Thần cúi đọc Chế sách rằng: Người có chín đức đều được giao việc, cầu người tài giỏi, tôn trọng hiền năng, đó là thịnh trị đời Đường, Ngu, Tam đại. Có người nói: Từ Chuyên Húc về sau không thể thâu tóm trị lý ở xa, chỉ thâu tóm trị lý ở gần, vậy thì Cửu quan, Lục điển là không đủ để theo chăng? Chức thú lệnh hai ngàn thạch đời Hán thường vào làm Cửu khanh. Chế độ đời Đường, quan ở kinh đô, Đô đốc, Thứ sử xuất nhập luôn hài hoà, quả có đủ để nên nền trị của một thời đại chăng? Nay số quan trong ngoài rất nhiều mà người xứng chức thì ít, ấy là tệ của phép chăng? Hay là người khó có được?
Thần trộm nghĩ: Bậc vua sáng dựng nền chính trị không ở quan mà ở người. Thời Đường, Ngu người có chín đức đều làm việc, các bậc hiền tỏ rõ ba đức, nghiêm kính sáu đức để làm nên các việc (60), cho nên đạt đến thịnh trị thái hoà yên ổn. Các vua đời Tam đại cầu người tài giỏi, tôn trọng hiền năng, có các bậc sĩ Tam trạch, Tam tuấn để chính đính trăm công việc (61), cho nên đạt đến thịnh trị thuần lớn nhạ hành (62). Thời thịnh Đường, Ngu thực là vì thế.
Trước đó có nghe dùng nước, lửa, rồng, chim để đặt tên chức quan. Làm thầy dân mà đặt tên bằng việc dân, bắt đầu từ Chuyên Húc. Đàm Tử nói là không thể thâu tóm trị lý ở xa mà chỉ thâu tóm trị lý ở gần (63), cũng chỉ là đại khái nói khác với thời thượng cổ mà thôi, không phải coi đó là đức suy vậy. Rút cục lại thì trời đất mở mang dần dần, vào lúc văn minh dần tỏ, quan chế không thể noi theo thời hồng hoang, cũng như chữ viết đã làm ra thì không thể thắt nút mà trị vậy (64), đâu có xa với gần gì? Há chẳng thấy đời Đường, Ngu mệnh cho chín chức quan, Vũ làm Tư không, Khí làm Hậu Tắc, Tiết làm Tư đồ, Cao Dao làm Sĩ sư. Thuỳ làm Cung công, Ích làm Trẫm ngu, Bá Di làm Trật tôn, Quỳ làm Điển nhạc, Long làm Nạp ngôn, dùng họ làm sáng tỏ công việc của trời mới có thể đưa đến nền trị vô vi (65). Chu Công chế ra sáu điển, Thiên quan Chủng tể là Trị điển, Địa quan Tư đồ là Giáo điển, Xuân quan Tông bá là Lễ điển, Hạ quan Tư mã là Chính điển, Thu quan Tư khấu là Hình điển, Đông quan Tư không là Sự điển. Dùng họ xướng suất chín châu mục mới có thể đưa đến nền trị giúp cho triệu dân thành tựu. Đó đều là ở sau thời Chuyên Húc mà tuỳ thời chia đặt. Thuấn điển, Chu quan trở thành khuôn phép đặt quan muôn đời, sao lại không đáng theo?
Chế độ nhà Hán, thú lệnh lương hai nghìn thạch nếu có thành tích về chính trị thì cho vào làm Cửu khanh, tư cách tuy nghiêm nhưng vẫn còn có ý cổ, cho nên lại trị nhà Hán gần với cổ nhất. Thú lệnh hai nghìn thạch như Hoàng Bá, Cung Toại đều được khen là tuần lương (66); Cửu khanh như Cấp Ảm, Nhi Khoan đều thuần hậu chính trực (67). Quan lại xứng chức, xóm làng nhờ thế mà lạc nghiệp.
Chế độ nhà Đường, quan ở kinh có tài năng học thức thì phong cho làm Đô đốc, Thứ sử. Đô đốc, Thứ sử có thành tích chính trị thì lại phong cho làm quan trong kinh, xuất nhập luôn hài hoà, bắt đầu từ Huyền Tông thì thành định thức, cho nên chức quan ngoài không đến nỗi quá nhẹ, mà quan ở kinh có thể bổ khuyết, giúp đỡ thiếu sót để giúp cho đức của vua. Người làm Đô đốc, Thứ sử cũng có thể quạt làn gió nhân, vỗ yên lê thứ. Quan đã được người mà thái bình tự mình đưa lại, tuy không dám mong như Cửu quan nhà Hán, Lục điển nhà Chu nhưng cũng đủ để nên nền trị của một thời đại vậy.
Nay Bệ hạ với sự sáng suốt biết người, uỷ nhiệm cho các bậc đại thần, ở triều đình có Y Doãn, Phó Duyệt (68), ở ngoài cõi có Thiệu Hổ, Phương Thúc (69), hiệu quả được người có thể thấy. Duy các ty trong ngoài số viên chức rất nhiều, kẻ hãnh tiến không phải không có lời chê “thổi trộm”, kẻ ăn hại không phải không có lời chê “ăn không” (70). Người xứng chức ít, đúng như lời thánh dụ nói. Đó há phải là tệ hại của phép chăng? Thần cho rằng phép không phải là không có tệ nhưng tệ hại chính ở chỗ không giữ phép. Há phải người khó được hay sao? Thần cho rằng người cố nhiên là khó được nhưng cái khó đặc biệt ở chỗ không chọn người. Trong thì bộ, viện, tự, các; ngoài thì tỉnh, phủ, huyện, châu, thể thống nối nhau, phép cũ còn đó.
Vâng đức Thánh tổ Nhân hoàng đế ta (71) có sách Chính yếu mà việc xét quan đặc biệt coi trọng.
Đức Dực Tôn Anh hoành đế ta có làm ra Quan châm mà xét quan lại rất kỹ càng. Phép trị, người trị chưa từng bỏ một bên nào. Từ khi kẻ có trách nhiệm giữ phép không thể giữ được phép mà phép bắt đầu biểu hiện có tệ. Từ khi người tiến cử người không biết chọn người mà người bắt đầu mới thấy khó được. Nay chỉ nhìn thấy tệ mà không bổ cứu, biết là khó mà không phân biệt hay sao? Thần trộm cho là nên có cách để biến thông. Đạo biến thông không ngoài việc chọn người, giữ phép, chỉ hai điều đó mà thôi.
Thế nào là chọn người? Điều thần nói là làm trong sạch đường vào làm quan để nghiêm khi bắt đầu là thế. Nay đường vào làm quan rối rắm phức tạp quá lắm. Quan trong còn theo tư cách (72), còn đến quan ngoài thì đút lót chạy chọt chiếm một nửa, ỷ thế cầu cạnh chiếm một nửa. Trong một tỉnh, tìm người xuất thân bằng đường chính thì không được bao nhiêu, mà chen vai nối gót đều không phải từ học vấn mà ra. Nay nếu như không thể bãi hết thì há không thể giảm bớt được hay sao?
Thần xin xét sổ quan trong ngoài, kẻ nào vào loại ấy thì tính toán sa thải, giảm bớt. Trừ những người thực sự liêm khiết có tài và những người có công lao thì vẫn cho giữ chức, còn lại đều triệt hồi, chọn viên khác bổ vào. Đến việc xét đề cử ắt phải theo tư cách, thận trọng xét kỹ, xác thực là phù hợp với người. Xét khuyết điểm cần phải không có vượt bậc, ngõ hầu tránh được lạm. Kẻ nào làm trái sẽ do bộ Lại phát ra, nghị xử, như thế thì đường vào làm quan không đến nỗi hỗn tạp mà kẻ tầm thường cũng không dám dựa vào quan tước của triều đình để làm bậc thang.
Thế nào là giữ phép? Điều thần nói rằng trọng điển lệ khảo xét thành tích để khuyến khích chỗ sau cùng là thế. Đại kế (73) có lệ, quốc gia khảo xét không phải là không nghiêm minh. Kẻ tham nhũng bị phạt, luật về quan lại không phải là không tinh mật. Thế nhưng kẻ dưới vâng mệnh thi hành, một khi theo ý riêng mình, thậm chí xuống tay cao thấp, sao có thể không cấm chỉ được? Thần xin sức cho Thuyên tào, phàm có người phải xét hoặc đề cử thì phải chua rõ thực trạng ở dưới tên người, không được mịt mờ che dấu. Ngoài thì có các quan Giám ty cũng theo lệ đó mà làm. Như vậy thì điển chế khảo xét thành tích càng thêm kỹ càng chu đáo mà kẻ tham nhũng không thể coi pháp chế của triều đình là hư văn vậy. Còn như thăng giáng thưởng phạt thì điển chế triều Ngu, triều Chu có thể tra xét; trong ngoài xuất nhập thì việc nhà Hán, nhà Đường có thể tham khảo.
Thần xin Bệ hạ chọn lựa việc thích nghi cho ngày nay mà thi hành thì các quan lại ắt sẽ xứng chức vậy.
Thần cúi đọc Chế sách rằng: Đời thượng cổ, nông dân vui với ruộng đồng, tắm gội ơn huệ mà vịnh ca lao khổ, làm thế nào mới được như thế? Mạnh Tử nói rằng: “Có thuế vải tơ, có thuế thóc gạo, có trưng lao dịch”, pháp chế của các vua sáng không ngoài ba điều đó. Khảo trong ghi chép ở Tiểu tư đồ rõ ràng có thể ghi lại. Điều Trịnh Khang Thành chỉ ra là đúng hay là sai? Ngoài thuế thường của quốc gia còn có các tạp thuế đầu nguồn, lâm sản, tài mộc mà kẻ dưới thừa hành không tránh khỏi làm hại dân. Nay muốn chọn điều không có tệ mà thi hành, làm thế nào mới có thể khiến cho nông nghiệp, thương nghiệp giúp đỡ nhau, đều dốc sức vào bản nghiệp, ngày càng đạt đến phồn thịnh?
Thần trộm nghĩ: Đời thượng cổ chế định dân có tài sản thường, thu của dân có thuế thường, mà lại có cách thức khuyến khích, giúp đỡ, có phép bổ trợ, cho nên người làm nghề nông vui vẻ với ruộng đồng cũng như kẻ sĩ hưởng tên tuổi của các bậc cựu đức, thợ giữ quy củ của cha ông, tắm gội ơn huệ mà vịnh ca lao khổ, thơ thới thung dung mà không biết chán. Lời ca Cửu tự, lời thơ Thất nguyệt (74), ý vị sâu xa biết bao!
Phép thu của dân của các bậc vua sáng đời cổ, quy chế có ba: Thuế vải tơ là thuế sản nghiệp, do Tải sư nắm. Thuế thóc gạo là thuế ruộng, do Địa quan nắm. Trưng lực dịch là thuế thân, do Quân dịch nắm (75). Ba điều này đều thi hành một thứ mà hoãn hai thứ, không như thời Chiến Quốc thu cả một lúc để làm hại dân vậy. So với phép thuế đời Hán chia làm ba bậc, đại khái cũng không giống nhau. Lấy lời của Mạnh Tử, khảo với ghi chép trong Tiểu tư đồ, rõ ràng đáng ghi. Điều Trịnh Khang Thành chỉ ra là dùng chế độ đời Hán để giải thích Chu quan, đâu đủ làm căn cứ? Sự sai không cần phải biện biệt làm gì.
Ngày nay từ sau khi xảy ra việc, quốc khố thường thiếu, thần từng riêng tính về việc này. Chi dùng hàng năm của triều đình, trừ số thuế ruộng đất chính cung của mười hai tỉnh từ Thanh Hoá vào nam và số thuế mới nghị định tăng thêm, vẫn còn thiếu hơn một trăm vạn, cho nên Bệ hạ mới hỏi về việc thuế. Vâng xét thuế ruộng đất của nước ta vốn có định ngạch, ngoài ra còn có các loại thuế đầu nguồn, lâm sản, tài mộc và các tạp thuế như thuế muối, thuế rượu, thuế quế, thuế nấu rượu...đều là để phong phú nguồn của cải mà tăng thêm cho quốc dụng. Nhưng kẻ dưới thừa hành dựa vào đó mà thêm quấy rối, kẻ thì khéo léo bóc lột, kẻ thì ngấm ngầm bao lạm, không tránh khỏi làm hại dân, vậy lấy gì để làm giầu cho nước? Điều thần nói là quan lại chưa được người thì đây là nghiệm vậy. Nay muốn chọn việc không có tệ mà thi hành thì thực là có điều khó nói. Sao vậy? Nay kho nhà nước cạn kiệt mà dân cũng khó có cái ăn, kho công không đủ mà nhà riêng cũng trống rỗng. Kinh Dịch có câu rằng: “Làm tổn kẻ dưới để ích cho người trên thì là Tổn”, “Tổn của người trên để làm ích cho kẻ dưới thì là Ích” (76). Ký có câu rằng: “Tiền của tụ thì dân tán, tiền của tán thì dân tụ” (77). Cái cơ như thế, cân nhắc thời nghi mà không làm hại dân, há chẳng rất khó sao?
Thần trộm cho là muốn thi hành các loại thuế ắt phải có được người thì sau mới có thể làm được. Người nhân lấy nước làm lòng, lấy dân làm lòng mà không tính kế cho riêng mình, cho nhà mình. Dùng họ nắm việc tiền của thì ắt sẽ có thể hết lòng thành lo liệu. Thu của dân một phần thì nhập vào nhà nước một phần, dưới không đến nỗi làm hại dân mà trên có thể làm giầu cho nước. Như Lưu Án đời Đường (78) lo của có năm điều tốt là người như thế vậy.
Điều thần cho rằng chức quan thân dân ắt phải được người như thế mới là xứng chức. Nay nếu thực sự được người như vậy thì dù các thứ thuế cùng thi hành, thần vẫn bảo đảm là không có tệ. Nếu không được người như vậy, tuy giảm một hai phần, thần vẫn biết là tệ không thể kể xiết.
Thần mong Bệ hạ tinh tuyển chức quan thân dân, giao cho việc thuế, cho họ tuỳ nghi dùng các biện pháp, ngõ hầu không hại dân mà có thể bổ sung cho những chỗ thiếu của thuế thường. Còn như phép Quan sơn phủ hải, Quản Trọng thi hành ở nước Tề (79). Giá hạ thì thu vào, giá cao thì xuất ra, Lý Khôi thi hành ở nước Nguỵ (80). Những cái đó tuy không phải là phép hay thời Tam đại nhưng cũng là một biện pháp linh hoạt để làm dân giầu nước đủ. Thần mong Bệ hạ châm chước mà thi hành thì nông nghiệp, thương nghiệp sẽ giúp cho nhau mà đều dốc sức vào bản nghiệp. Nơi làng xóm ngày một khởi sắc mà có thể dần dần đến giầu thịnh. Còn như bọn Tang Hoằng Dương, Vũ Văn Tử (81) thu ép của dân để dâng lên trên, đó là việc thời mạt vận của nhà Hán, nhà Đường, không những không thể thi hành mà cũng là điều không đáng nói vậy. Thần mong Bệ hạ hãy răn dè việc ấy.
Thần cúi đọc Chế sách rằng: Các việc trọng nông, trừ bạo, khảo xét quan lại, yêu thương nhân dân đều là cốt yếu làm chính trị. Nay muốn năm luôn được mùa, biên cương yên ổn, trăm quan gắng tiết tháo kính cẩn, dân được hưởng phúc an lợi, để chính trị giáo hoá ngày một tiến lên, đón phúc thăng bình, đạo phải theo như thế nào?
Các sĩ tử đại phu thông kinh học cổ, sẽ suy xét ra việc làm, hãy hết sức phô bày, đừng có che dấu, trẫm sẽ đích thân xem xét.
Thần qua đây kính thấy Bệ hạ ân cần cầu trị, dốc lòng chuộng sĩ, cho nên thể hiện ra ngọc dụ khẩn khoản thiết tha đến thế.
Thần trước đã nói việc tinh tuyển quan lại và cốt yếu của các việc rồi, nhưng điểm đại yếu lại có chỗ vậy.
Thần trộm cho rằng đó là ở tâm chăm lo khuya sớm của Bệ hạ mà thôi. Tâm chăm lo khuya sớm là gì vậy? Là tâm kính trời, là tâm noi theo tổ tông, là tâm thể lòng quần thần, là tâm coi dân như con vậy. “Tự gắng không ngừng” trong Kinh Dịch, “Kính để làm chỗ” trong Kinh Thư, “Ngày lại mới thêm” của Thành Thang, “Kính thắng nghĩa thắng” của Vũ Vương (82) đều là giữ gìn tâm đó. Bệ hạ đã có tâm ấy, mà thêm giữ gìn, mà thêm mở rộng. Hôm nay như thế, ngày mai như thế, ngày ngày cũng đều như thế thì bốn điều Bệ hạ hỏi có thể không cần khó nhọc mà làm được. Thần xin được tách bạch ra mà nói.
Bệ hạ muốn năm luôn được mùa, thần mong Bệ hạ suy từ tâm chăm lo khuya sớm để thi hành chính sách trọng nông. Thiên Vô dật của Kinh Thư, thiên Thần công của Kinh Thi (83) đều là việc đó. Chính sách trọng nông đã thi hành thì thuận phong thành tượng, mà lời ca “Nhiều kê nhiều lúa” (84) có thể vịnh lại được,
Bệ hạ muốn biên giới yên ổn. Thần mong Bệ hạ suy từ tâm chăm lo khuya sớm để thi hành chính sách trừ bạo. “Tích trữ khí giới” của Kinh Dịch, “Chăm lo quân đội” của Kinh Thư (85) đều là việc đó. Chính sách trừ bạo đã thi hành thì gần xa thấm giáo hoá, mà tập thơ “Tái tập, tái cao” (86) có thể nối ca vậy.
Bệ hạ muốn các quan gắng tiết tháo kính cẩn. Thần mong Bệ hạ suy từ tâm chăm lo khuya sớm để thi hành chính sách khảo xét quan lại. Ba năm xét công của Ngu Thư, sáu kế xét lại của Chu quan (87) đều là việc đó. Chính sách khảo xét quan lại đã thi hành thì nêu ngay bóng chính, trăm quan sẽ có tiết tháo Cao dương (88) vậy.
Bệ hạ muốn dân được hưởng phúc an lợi. Thần mong Bệ hạ suy từ tâm chăm lo khuya sớm để thi hành chính sách yêu dân. Lời Khổng Tử nói: “Kính cẩn công việc mà giữ tín, dùng tiết kiệm mà yêu dân” (89), lời Mạnh Tử nói: “Nông tang giáo dưỡng” (90) đều là việc đó. Chính sách yêu dân đã thi hành thì gió lướt mà cỏ rạp, muôn phương không còn lời than Hoàng điểu (91) vậy.
Như thế thì mùa màng thường phong đăng, biên cương luôn yên ổn, quan lại xứng chức, làng xóm lạc nghiệp, để đưa đạo đời đến thăng bình, kéo dài cơ nghiệp muôn vạn năm vô cùng của quốc gia ta. Rực rỡ tốt đẹp thay!
Thần là kẻ sơ học tân tiến, không biết những điều cấm kỵ, mạo phạm uy nghiêm nhà vua, run sợ khôn xiết.
Thần kính cẩn thưa.
- Thức đến sáng để suy nghĩ: Nguyên văn là “Đãi đán dĩ tư”. Chỉ lòng lo lắng ân cần. Điển lấy từ thiên Thái Giáp thượng – Kinh Thư, ghi lời hiền thần Y Doãn ca ngợi vua Thành Thang, vị thánh quân sáng nghiệp nhà Thương: “Tiên vương muội sảng phi hiển, toạ dĩ đãi đán, bàng cầu tuấn ngạn, khải địch hậu nhân” (Tiên vương từ lúc mờ sáng đã tỏ đức tốt, ngồi đợi đến sáng mà làm việc, rộng cầu hiền tài để dạy bảo dẫn dắt cho con cháu).
- Bát chính: Tám chính sách, được trình bày trong thiên Hồng phạm – Kinh Thư. Thiên Hồng phạm là phép lớn trị nước, được Cơ Tử, tông thần nhà Thương điều trần với Chu Vũ Vương vào năm thứ 13 đời Chu Vũ Vương, nội dung gồm có chín lĩnh vực (Cửu trù). Trù thứ ba là Bát chính, tức phải thi hành tám chính sách gồm: Thực (cái ăn), Hoá (của cải), Tự (tế lễ), Tư không (xây dựng), Tư đồ (giáo dục), Tư khấu (hình pháp), Tân (ngoại giao), Sư (quân đội).
- Ba mùa không hại mà thời hoà, năm được mùa: Nguyên văn là “Tam thời bất hại nhi thời hoà niên phong”. Lời của Quý Lương, hiền thần của nước Tuỳ thời Xuân thu nói với Tuỳ hầu, được ghi trong sách Tả truyện, năm Hoàn công thứ 6. Nguyên trong Tả truyện viết là “tam thời bất hại nhi dân hoà niên phong”. Ba mùa là xuân, hạ, thu, là thời vụ nhà nông. Nếu thời vụ nhà nông không bị ảnh hưởng thì dân hoà bình, năm được mùa.
- Tam đại: Ba triều đại: nhà Hạ (TK 22 – TK 17 trCN), nhà Thương (TK 17 – TK 11 trCN), nhà Chu (TK 11 – 256 trCN). Nho gia xem thịnh thời của ba triều đại này là thời các thánh vương ngự trị, thi hành vương đạo, làm mẫu mực chính trị cho đời sau.
- Tuy: Phép chia đất của Đại Vũ nhà Hạ ra làm năm cõi (Ngũ phục) được ghi trong thiên Vũ cống – Kinh Thư. Lấy vương kỳ (kinh đô của thiên tử) làm trung tâm, cách 500 dặm là một cõi (Phục). Tính từ trong ra ngoài có các cõi: Điện, Hầu, Tuy, Yêu, Hoang.
- Tôn sùng đức, thận trọng đức: Nguyên văn là “Đôn đức”, “Thận đức”. Thiên Thuấn điển – Kinh Thư ghi lời Ngu Thuấn khi mới lên ngôi nói với mười hai châu mục rằng: “Nhu viễn năng nhĩ, đôn đức doãn nguyên nhi nan nhâm nhân, man di suất phục” (Mềm dẻo vỗ về người ở xa, yên trị người ở gần, tôn sùng người có đức, tin cẩn người có nhân và cự tuyệt kẻ gian hiểm thì man di sẽ đem nhau đến thần phục). Thiên Lữ ngao – Kinh Thư ghi lời Thái bảo (Thiệu công Thích) nói với Chu Vũ Vương khi Tây Lữ đến tiến cống chó ngao rằng: “Minh vương thận đức, tứ di hàm tân, vô hữu viễn nhĩ” (Vua sáng thận trọng đức, bốn phương man di đều đến chầu, không kể xa gần).
- Các việc có thứ tự, phổ vào lời ca: Nguyên văn là “Duy tự duy ca”, lấy điển từ thiên Đại Vũ mô – Kinh Thư, ghi lời Đại Vũ nói với Đế Thuấn: “Thuỷ, hoả, kim, mộc, thổ, cốc, duy tu; chính đức, lợi dụng, hậu sinh, duy hoà. Cửu công duy tự, cửu tự duy ca” (Thuỷ, hoả, kim, mộc, thổ, ngũ cốc, phải sửa sang; Chính dân đức, lợi dân dụng, hậu dân sinh, phải làm hài hoà. Chín công việc đó có thứ tự, phổ vào lời ca). Yên ổn cấy cầy ăn ở: Nguyên văn là “Nhĩ điền nhĩ trạch”, lấy điển từ thiên Đa phương – Kinh Thư ghi lời Chu Công nói với dân cũ nhà Thương: “Kim nhĩ thượng trạch nhĩ trạch, điền nhĩ điền, nhi hạt bất huệ vương hy thiên chi mệnh” (Nay các ngươi được ở nhà cũ của các ngươi, cầy ở ruộng cũ của các ngươi, mà sao chẳng đội ơn nhà vua để mở rộng thêm mệnh của trời.
- Tả, Hữu kỳ: Tả kỳ là tên Minh Mệnh đặt năm 1834 cho địa phận từ phía tả kinh đô Huế vào nam đến tỉnh Bình Thuận giáp Nam kỳ. Hữu kỳ là điạ phận từ phía hữu kinh đô Huế ra bắc đến giáp Bắc kỳ. Trong Tả kỳ lại có Tả trực kỳ gồm hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Trong Hữu kỳ lại có Hữu trực kỳ gồm hai tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình.
- Người có chín đức đều được làm việc: Nguyên văn là “Cửu đức hàm sự”, lấy điển từ thiên Cao Dao mô – Kinh Thư, ghi lời Cao Dao, hiền thần đời Nghiêu Thuấn nói: “Cửu đức hàm sự, tuấn nghệ tại quan” (Người có chín đức đều làm việc, người tài giỏi đều giữ chức quan). Cửu đức được Cao Dao trình bày gồm: Khoan nhi lật, nhu nhi lập, nguyện nhi cung, loạn nhi kính, nhiễu nhi nghị, trực nhi ôn, giản nhi liêm, cương nhi tắc, cường nhi nghĩa (Khoan hoà mà nghiêm trang, mềm mỏng mà vững vàng, cẩn hậu mà cung thuận, có tài trị mà kính cẩn, thuần hậu mà cương nghị, ngay thẳng mà ôn hoà, giản dị mà phương chính, cứng rắn mà đốc thực, mạnh mẽ mà có nghĩa).
- Đường, Ngu: Triều đại của Nghiêu, Thuấn. Đế Nghiêu Đào Đường thị và Đế Thuấn Hữu Ngu thị là hai vị thánh đế thời thượng cổ Trung Quốc. Thời trị vì của Nghiêu Thuấn được lý tưởng hoá là thời cực thái hoà thịnh vượng.
- Chuyên Húc: Vị đế thời thượng cổ Trung Quốc, họ Cao Dương, là cháu của Hoàng Đế Hữu Hùng thị. Ông được tính là một trong Ngũ đế. Câu nói này của Đàm Tử, được ghi trong sách Tả truyện, Chiêu công năm thứ mười bảy.
- Cửu quan, Lục điển: Quan chức đời Ngu, đời Chu. Thiên Thuấn điển – Kinh Thư ghi Ngu Thuấn bổ nhiệm chín chức quan phụ trách các lĩnh vực công việc trong triều đình nhà Ngu gồm: Bách quỹ (điều hành chung), Hậu Tắc (nông nghiệp), Tư đồ (giáo dục), Sĩ sư (hình luật), Cung công (thợ thuyền, xây dựng), Ngu (lâm nghiệp), Trật tông (tế lễ), Điển nhạc (âm nhạc, giáo dục), Nạp ngôn (truyền đạt mệnh lệnh). Sách Chu lễ (còn gọi là Chu quan) tương truyền là do Chu Công soạn ghi lại quan chế nhà Chu, gồm có sáu lĩnh vực lớn là Trị điển (chính trị), Giáo điển (giáo hoá, tài chính, thổ địa...), Lễ điển (điển lễ), Chính điển (quân sự), Hình điển (pháp luật), Sự điển (thợ thuyền, xây dựng...).
- Thời nhà Hán, chức Thái thú cai trị một quận hưởng lương hai nghìn thạch thóc (một thạch là 120 cân). Cửu khanh là chín chức quan cao cấp trong triều đình nhà Hán gồm: Thái thường, Quang lộc huân, Vệ uý, Thái bộc, Đình uý, Đại hồng lô, Tông chính, Đại tư nông, Thiếu phủ.
- Câu này dẫn từ thiên Tận tâm hạ sách Mạnh Tử. Mạnh Tử nói: “Hữu bố lũ chi chinh, hữu túc mễ chi chinh, hữu lực dịch chi chinh, quân tử dụng kỳ nhất, hoãn kỳ nhị. Dụng kỳ nhị nhi dân hữu biều, dụng kỳ tam nhi phụ tử ly” (Có thuế vải tơ, có thuế thóc gạo, có trưng lao dịch, quân tử dùng một mà hoãn hai. Dùng cả hai một lúc thì dân đói, dùng cả ba một lúc thì cha con chia lìa). Chu Tử chú rằng mùa hạ thu thế vải tơ, mùa thu thu thuế thóc gạo, mùa đông trưng đi lao dịch. Thu của dân đúng thời, nếu trưng thu cùng một lúc thì sức dân không kham nổi.
- Tiểu tư đồ: Chức quan phụ trách thu thuế đời nhà Chu, thuộc về Địa quan, là chức phó của Địa quan Tư đồ, được ghi tường tận chức trách trong sách Chu lễ.
- Trịnh Khang Thành: Tức Trịnh Huyền (127 – 200), tự Khang Thành, đại nho, đại sư kinh học đời Đông Hán. Ông dung hội học thuyết của các phái kinh học Kim văn, Cổ văn, chú giải hầu hết các kinh điển Nho gia. Đặc biệt chú giải về Tam lễ của ông được đánh giá rất cao. Đây hỏi chú giải của Trịnh Huyền về chức Tiểu tư đồ trong Chu lễ.
- Câu này trích trong thiên Tri y sách Lễ ký: “Vương ngôn như ty, kỳ xuất như luân, vương ngôn như luân, kỳ xuất như phất, cố đại nhân bất xướng du ngôn” (Lời của vua như ty mà xuất ra như luân, lời của vua như luân mà xuất ra như phất, cho nên đại nhân không nói ra lời phù phiếm). Ty là sợi tơ, luân là cái dây to đeo ấn, phất là cái dây thừng to kéo xe. Ý nói lời của vua tuy nhỏ nhưng truyền bá ra sẽ có công hiệu lớn.
- Dực tôn Anh hoàng đế: Vua Tự Đức nhà Nguyễn. Sau khi băng, vua được dâng miếu hiệu là Dực tông (kiêng tên huý vua Thiệu Trị nên gọi là Dực tôn), thuỵ hiệu là Kế Thiên Hanh Vận Chí Thành Đạt Hiếu Thể Kiện Đôn Nhân Khiêm Cung Minh Lược Duệ Văn Anh hoàng đế.
- Thánh học nối sáng, ngày một tiến thêm: Nguyên văn là “Tập hy chi học, nhật tựu nguyệt tương”, dùng điển từ thơ Kính chi trong phần Chu tụng – Kinh Thi: Nhật tựu nguyệt tương, học hữu tập hy vu quang minh (Ngày ngày thêm thành tựu, tháng tháng thêm tiến bộ, học nối tiếp sáng cho đến rạng ngời). Tiên nho cho rằng đây là lời của Chu Thành Vương đáp lại những lời khuyên răn của quần thần.
- Đoạn này chỉ kỳ thi Hội.
- Hữu ty: Các quan phụ trách từng lĩnh vực công việc. Đây chỉ các khảo quan phụ trách kỳ thi Hội.
- Điển, Mô: Tên hai thể trong Kinh Thư. Điển là bộ phận ghi chép mẫu mực chính trị đời Nghiêu, Thuấn. Mô là bộ phận chi chép những thảo luận chính trị đời Nghiêu Thuấn.
- Thành Vương: Tên là Cơ Tụng, con Chu Vũ Vương. Ông lên ngôi khi còn nhỏ, chú là Chu Công (Cơ Đán, em Chu Vũ Vương) phụ chính. Chu Công chế lễ nhạc, định chế độ, cùng cố vương quyền, văn trị rực rỡ. Thành Vương cũng hết sức học hỏi, tu dưỡng. Đến khi trưởng thành, Chu Công trao lại chính quyền cho Thành Vương. Thời trị vì của Thành Vương là thời cực thịnh của vương triều Chu.
- Câu này trích dẫn từ thiên Thái thệ thượng – Kinh Thư.
- Câu này trích từ thiên Duyệt mệnh trung – Kinh Thư.
- Quẻ Thái - Kinh Dịch tượng trưng trời đất giao hoà, vạn vật hanh thông, rất tốt. Thoán truyện viết: “Thiên địa giao nhi vạn vật thông dã, thượng hạ giao nhi kỳ chí đồng dã” (Trời đất giao hoà mà vạn vật hanh thông, trên dưới giao hoà mà chí hướng hoà đồng).
- Đổng nhung: Chức chỉ huy quân đội.
- Thân dân: Chỉ các quan lại địa phương, trực tiếp có quan hệ với dân.
- Liệt thánh của bản triều: Chỉ các đời chúa Nguyễn và vua Nguyễn trước.
- Tài thành phụ tướng: Tượng truyện quẻ Thái viết: “Thiên địa giao, Thái, hậu dĩ tài thành thiên địa chi đạo, phụ tướng thiên địa chi nghi, dĩ tá hựu dân” (Trời đất giao hoà là tượng quẻ Thái, nhà vua theo đó mà sửa sang đạo trời đất, giúp đỡ những thích nghi của trời đất để giúp cho dân). Chỉ vai trò tham thiên địa, tán hoá dục (tham dự giúp đỡ hoá dục của trời đất) của nhà vua.
- Dân lấy cái ăn làm trời: Nguyên văn là “Dân dĩ thực vi thiên”. Đây là lời của Lịch Tự Cơ đời Hán. Trong Hán thư - Lịch Tự Cơ truyện có dẫn lời Lịch Tự Cơ rằng: “Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên” (Vương giả coi dân là trời mà dân coi cái ăn là trời).
- Gắng dùng: Nguyên văn là “nông dụng”, chữ trong thiên Hồng phạm – Kinh Thư: “Nông dụng Bát chính” (Nỗ lực thực thi Tám chính sách).
- Quý Lương: Hiền thần nước Tuỳ thời Xuân thu. Tả truyện – Hoàn công năm thứ sáu có ghi lời của Quý Lương nói với Tuỳ hầu rằng: “Các thánh vương thời cổ trước phải hoàn thành việc dân rồi sau mới dốc sức vào việc thần. Cho nên khi dâng sinh vật tế thì cáo rằng: Sinh vật to béo, ý nói sức dân còn khắp vậy, cho nên nuôi dưỡng sinh vật được to béo, sinh sôi, không bệnh tật. Dâng xôi tế thì cáo rằng: Thanh khiết thơm to, vì ba mùa không hại nên dân hoà, năm được mùa. Dâng rượu tế thì cáo rằng: Rượu ngon thơm phức, là vì trên dưới đều có đức tốt mà không trái lòng, thơm tho không có dèm pha tội lỗi. Cho nên phải chăm ba mùa, sửa ngũ giáo, thân cửu tộc để hết mức kính cẩn tế lễ, như thế thì dân hài hoà mà thần mới ban phúc cho”.
- Hoàng, trùng, mâu, tặc: Các loại sâu hại lúa. Hậu Tắc: Hiền thần đời Nghiêu, Thuấn, tên là Khí, con của Đế Cốc Cao Tân thị, anh cùng cha khác mẹ với Đế Nghiêu. Ông giữ chức quan Hậu Tắc thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn, phụ trách việc nông nghiệp. Ông là viễn tổ nhà Chu.
- Chín năm lụt, bảy năm hạn: Thời Đế Nghiêu bị lụt chín năm, dùng Cổn trị thuỷ không thành công, sau dùng Vũ trị thuỷ thành công. Thời Thành Thang (vua sáng nghiệp nhà Thương) bị hạn hán bảy năm, vua tu đức, chí thành cầu đảo nên có mưa.
- Trong thiên Học nhi sách Luận ngữ, Khổng Tử có nói: “Đạo thiên thặng chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời” (Trị một nước có nghìn cỗ xe phải kính cẩn các việc mà giữ tín, chi dùng tiết kiệm mà yêu người, sai khiến dân đúng thời).
- Trong thiên Lương Huệ vương thượng sách Mạnh Tử, Mạnh Tử có nói: “Bất vi nông thời, cốc bất khả thăng thực dã” (Không làm trái thời vụ nhà nông thì thóc không ăn xuế vậy).
- Tượng truyện của quẻ Tỉnh – Kinh Dịch. Chu Dịch Bản nghĩa của Chu Hy chú rằng: Trên cây có nước thấm nhuần đi lên là tượng cái giếng. Yên ủi dân là vua trị nuôi dân, khuyến khích sự giúp đỡ là để dân nuôi nhau, đều lấy ý nghĩa “cái giếng nuôi người”.
- Chính cung: Số thuế đúng theo quy định.
- Câu này dẫn lời của Tạ Phương Đắc (1226 – 1289), nhà nho đời Nam Tống. Ông tự là Quân Trực, học giả gọi là Điệp Sơn tiên sinh, tiến sĩ triều Tống, theo phái Tâm học. Đến triều Nguyên, ông ẩn cư, bị bức ra làm quan, ông tuyệt thực mà chết để thủ tiết với nhà Tống.
- Gia Cát Vũ hầu: Tức Gia Cát Lượng (181 – 234), tự Khổng Minh, Thừa tướng nhà Thục Hán thời Tam quốc, được phong Vũ Hương hầu. Ông phò tá Chiêu Liệt đế Lưu Bị lập nước Thục, hình thành thế chân vạc với nước Nguỵ, nước Ngô thời Tam quốc. Sau ông phò tá Hậu chủ, định quan chế, sửa pháp độ, chỉnh đốn quân đội, mưu lấy lại trung nguyên, khôi phục vương triều Hán. Ông nhiều lần đem quân bắc phạt nhưng không thành công. Năm 234, Gia Cát Vũ hầu đem quân bắc phạt, đến Ngũ Trượng nguyên ở bờ nam sông Vị. Để tính kế lâu dài, ông cho xây dựng dinh luỹ tác chiến, đồng thời lập đồn điền khai khẩn đất đai, cầy cấy cùng dân để sản xuất lương thực tại chỗ cho quân dùng. Sau ông mất tại đó.
- Quách Tử Nghi (697 – 781): Danh tướng đời Đường, giữ chức Tiết độ sứ Sóc Phương đời Đường Huyền tông, có công đầu trong việc bình định loạn An - Sử. Sau ông phò tá các đời vua Đường tiếp theo, lập nhiều quân công, bình định được Hồi Hột, Thổ Phồn...Làm quan đến Thái uý, Trung thư lệnh, phong Phần Dương vương.
- Thái Tây: Chỉ các nước phương Tây, các nước châu Âu.
- Đại Vũ: Ông là con của Bá Cổn, dòng dõi Đế Chuyên Húc Cao Dương thị. Thời Đế Nghiêu có lụt lớn, Cổn được giao nhiệm vụ trị thuỷ nhưng không có hiệu quả, bị trị tội. Đế Thuấn bổ nhiệm Vũ giữ chức Tư không, tiếp tục công việc trị thuỷ của cha, sau mười ba năm thì thành công. Vũ có công trị thuỷ rất lớn, sau được Đế Thuấn bổ nhiệm giữ chức Bách quỹ, điều hành chính sự, rồi truyền ngôi cho. Vũ nhận ngôi vua của Đế Thuấn, lập nên vương triều nhà Hạ, mở đầu thời Tam đại.
- Thành Chu: Đầu triều đại nhà Chu, Chu Công cho xây dựng một đô thành lớn ở đất Lạc (Lạc ấp), gọi là Thành Chu, còn kinh đô nhà Chu ở đất Cảo gọi là Tông Chu. Thành Chu cũng dùng để chỉ nhà Chu giai đoạn thịnh thời của Thành vương, Chu công. Các chức Tượng nhân, Toại nhân là quan chức được chép trong sách Chu lễ, tương truyền do Chu Công định ra. Tượng nhân thuộc Đông quan, có trách nhiệm hoạch định khu vực đất đai. Toại nhân thuộc Địa quan, có trách nhiệm quản lý ruộng đất.
- Kênh Trịnh Quốc (Trịnh Quốc cừ): Kênh mương đào ở Quan Trung bình nguyên thời cổ, do Tần vương Doanh Chính cho đào theo kiến nghị của thuỷ công Trịnh Quốc người Hàn Quốc vào năm 237 trCN, hơn mười năm mới hoàn thành, dài ba trăm dặm, tưới được hơn bốn vạn khoảnh ruộng ở Quan Trung, làm ruộng đất ở Quan Trung trở nên mầu mỡ. Thiên Hà cừ thư sách Sử ký có chép tỷ mỷ về dòng kênh này. Đập Lương Công (Lương Công yển) được Vũ Văn Khải phụ trách cho xây dựng vào đời Tuỳ, là đường thuỷ phân nước Hoàng Hà vào kênh Thông Tế. Đến đời Đường có tu sửa đại quy mô.
- Thiên Vũ cống – Kinh Thư có ghi: Ngũ bách lý Tuy phục. Tam bách lý quỹ văn giáo, nhị bách lý phấn vũ vệ (Cõi Tuy năm trăm dặm. Ba trăm dặm thi hành văn giáo, hai trăm dặm chấn chỉnh võ vệ).
- Nguyên văn là “Ngu đế đôn đức, nhu viễn năng nhĩ nhi man di suất phục”, chỉ việc làm của Đế Thuấn, được ghi trong thiên Thuấn điển – Kinh Thư. Xem chú thích (6).
- Nguyên văn là “Chu vương thận đức, bất quý dị vật nhi tứ di hàm tân”, dùng điển từ thiên Lữ ngao – Kinh Thư. Xem chú thích (6).
- Chỉ công hiệu của Ngu Thuấn, được ghi trong thiên Đại Vũ mô – Kinh Thư.
- Chỉ hiệu quả thận đức của vua Chu, mấy chục năm trị vì thời Thành vương dân được yên ổn, dân cũ nhà Ân Thương thần phục.
- Nguyên văn là “Tu văn đức dĩ lai viễn nhân”. Chương một thiên Quý thị sách Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Viễn nhân bất phục tắc tu văn đức dĩ lai chi” (Người xa không phục thì sửa văn đức để chiêu vời họ).
- Nguỵ Giáng: Đại phu nước Tấn thời Xuân thu, con của tướng Nguỵ Thù. Thời Tấn Điệu công, Vô Chung Tử rợ Sơn Nhung đến xin hoà, Nguỵ Giáng nói hoà với Nhung có năm điều lợi, Tấn Điệu công sai ông hoà ước với rợ Nhung, nước Tấn được yên ôen, phục hưng nghiệp Bá. Các nhà nho cho rằng thuyết hoà Nhung của Nguỵ Giáng tuy có lợi nhất thời nhưng để lại hậu hoạ khôn lường.
- Đức đế vận hành rộng lớn: Nguyên văn là “Đế đức quảng vận”, dùng chữ từ thiên Đại Vũ mô – Kinh Thư, là lời hiền thần Bá Ích ca ngợi Đế Nghiêu.
- Hữu Miêu: Một bộ tộc thời Nghiêu, Thuấn, thường không thần phục, gây nhiễu loạn. Thiên Đại Vũ mô – Kinh Thư ghi: Đế Thuấn sai Đại Vũ đi chinh phạt. Ba tuần, Miêu vẫn chống mệnh. Bá Ích nói với Vũ rằng: Dùng đức, dùng thành để cảm động thì không ai không thần phục. Vũ bèn chỉnh quân, ban sư, mở rộng văn đức, múa can vũ (văn võ) ở hai bên bậc thềm. Sau bảy tuần, Hữu Miêu tự đến thần phục. Túc Thận là một dân tộc ở khu vực đông bắc Trung Quốc thời cổ. Thời Chu Vũ vương, Chu Thành vương, tộc này từng đem cung tên sản vật địa phương đến cồng nhà Chu.
- Trình Bất Thức: Tướng đời Hán. Thời Hán Văn đế, ông làm Thái thú ở biên giới, cùng tướng Lý Quảng chế ngự Hung Nô. Lý Quảng trị quân giản dị, Trình Bất Thức trị quân nghiêm minh, cả hai đều là danh tướng đương thời.
- Lý Quang Bật (708 – 764): Danh tướng đời Đường, giữ chức Tiết độ sứ Hà Đông đời Đường Huyền tông, có công bình định loạn An - Sử, công lao danh vọng ngang Quách Tử Nghi, được phong Lâm Hoài quận vương.
- Triều Thố (200 – 154 trCN), học giả thời Hán. Thời Hán Văn đế làm Thái tử gia lệnh. Thời Hán Cảnh đế được vua tin dùng, làm Ngự sử đại phu. Ông kiến nghị Cảnh đế tước đất phong để giảm bớt thực lực của các chư hậu, phòng nguy cơ cho nhà Hán, dẫn đến loạn Thất quốc (bảy nước chư hầu làm loạn kéo binh về kinh đô). Để xoa dịu tình hình, Cảnh đế quy tội cho ông, đem ông xử chém. Ông có bài Luận quý túc sớ (Sớ bàn về quý thóc) nổi tiếng.
- Triệu Sung Quốc (137 – 52 trCN), người đời Hán, hiếu học, giỏi mưu, có công phá Hung Nô thời Hán Vũ đế, được phong Trung lang tướng. Thời Tuyên đế, ông được phong Doanh Bình hầu. Khi Tây Khương nổi loạn, ông đã ngoài bảy mươi tuổi còn đến Kim Thành chiêu hàng, phá Tiên Linh, bãi binh đồn điền, thắng lợi trở về. Ông nói chính sách đồn điền có mười hai điều tiện lợi, ngụ binh ư nông, có lợi cho việc giữ yên ổn và sản xuất tại địa phương.
- Ba đức, sáu đức: Nguyên văn là “Tuyên tam nghiêm lục”. Thiên Cao Dao mô – Kinh Thư có ghi lời Cao Dao, hiền thần đời Nghiêu, Thuấn nói: “Nhật tuyên tam đức, túc dạ tuấn minh hữu gia. Nhật nghiêm chi kính lục đức, lượng thái hữu bang” (Đức của con người có chín, nếu ai ngày tỏ rõ được ba đức, sớm tổi cẩn trọng sáng suốt thì có thể làm quan đại phu. Ai ngày kính cẩn có sáu đức, làm sáng tỏ công việc thì có thể làm vua chư hầu) Về Cửu đức (chín đức), xin xem chú thích (9).
- Tam trạch, Tam tuấn: Dùng điển từ thiên Lập chính – Kinh Thư. Tam trạch là kén dùng ba chức quan: Sự (coi việc), Mục (trị dân), Chuẩn (hình pháp). Tam tuấn là người tài giỏi xứng đáng giữ ba chức quan đó. Trạch chỉ ngôi vị, Tuấn chỉ tài đức. Trong thiên Lập chính, Chu Công nói Thành Thang “dụng tam hữu trạch, khắc tức trạch; tam hữu tuấn, khắc tức tuấn (kén dùng ba chức quan, đều xứng đáng; chọn người tài giỏi giữ ba chức ấy, đều thực sự tài giỏi). Văn Vương, Vũ Vương “khắc tri tam hữu trạch tâm, chước kiến tam hữu tuấn tâm” (hiểu rõ lòng Tam trạch, thấy rõ lòng Tam tuấn).
- Nhạ hành: Đón lấy mực thước. Thiên Lạc cáo – Kinh Thư ghi lời Chu Thành vương khen Chu công rằng: “Duy công đức minh quang vu thượng hạ, cần thi vu tứ phương, bàng tác mục mục nhạ hành, bất mê Văn Vũ cần giáo” (Như ông, đức soi sáng khắp trên dưới, công lao rộng ra cả bốn phương, kẻ làm quan đều kính cẩn đón lấy mực thước, không sai lầm lời dậy ân cần của Văn vương, Vũ vương).
- Sách Tả truyện chép năm Lỗ Chiêu công thứ mười bảy, Đàm tử (vua nước Đàm, một nước chư hầu nhỏ thời Xuân thu, dòng dõi Thiếu Hạo Kim Thiên thị) đến nước Lỗ, Lỗ Chiêu công đãi tiệc, Chiêu tử hỏi Đàm tử tại sao vua Thiếu Hạo lại lấy tên loài chim mà đặt tên quan chức, Đàm tử trả lời: Xưa Hoàng Đế nhân có điềm mây, mới lấy các thức mây để đặt tên chức quan. Vua Viêm đế Thần Nông thị thì dùng lửa để đặt tên chức quan. Vua Cung Công có điềm nước nên dùng nước để đặt tên chức quan. Vua Thái Hạo Phục Hy thị thì dùng rồng để đặt tên chức quan. Đến vua Thiếu Hạo có chim phượng hiện ra báo điềm, nên mới dùng chim đặt tên chức quan. Từ vua Chuyên Húc về sau, không thể thâu tóm trị lý ở xa, chỉ thâu tóm trị lý ở gần, không phân tích công việc theo ý nghĩa xa xôi, chỉ theo các sự vật trước mắt, cứ theo công việc của dân mà định đoạt ngôi thứ người dạy dân, không làm khác thế được, nên đặt tên chức quan theo việc người.
- Thắt nút: Kết thằng. Thời cổ chưa có chữ viết, người ta dùng cách thắt nút dây để ghi nhớ công việc. Hệ từ hạ truyện – Kinh Dịch viết: Thượng cổ kết thằng nhi trị, hậu thế thánh nhân dịch chi dĩ thư khế, bách quan dĩ trị, vạn dân dĩ sát, cái thủ chư Quải”. (Thời thượng cổ trị bằng cách thắt nút dây, sau này thánh nhân thay bằng nét khắc vạch, trăm quan được trị, muôn dân được rõ, đại khái là lấy nghĩa quẻ Quải).
- Sáng công việc của trời: Nguyên văn là “lượng thiên công”, là lời Đế Thuấn dặn dò các quan chức sau khi bổ nhiệm Cửu quan, được chép trong thiên Thuấn điển – Kinh Thư. Xem thêm chú thích (12). Nền trị vô vi là lời Khổng Tử khen ngợi Đế Thuấn, ghi trong chương thứ năm thiên Vệ Linh Công sách Luận ngữ: “Vô vi nhi trị giả, kỳ Thuấn dã dư? Phù hà vi tai, cung kỷ chính nam diện nhi dĩ hỹ” (Vô vi mà trị, có lẽ là Thuấn chăng? Có cần làm gì đâu, chỉ kính cẩn thân mình ngồi quay mặt về phương nam thôi).
- Cung Toại: Thái thú Bột Hải thời Hán Tuyên đế. Gặp năm mất mùa, Cung Toại đi một xe đến quận, mở kho phát chẩn, khuyến khích dân cày ruộng dệt vải, mọi người bán dao kiếm mà mua trâu nghé, trong quận trị yên, là quan địa phương tốt nổi tiếng. Hoàng Bá (? – 51 trCN) làm Hà Nam Thái thú thừa thời Hán Vũ đế, rất khoan hoà. Thời Tuyên đế làm Đình uý chính, sau làm Dĩnh Xuyên Thái thú, Dương Châu Thứ sử, rất được lòng quan dân. Sau làm quan đến Ngự sử đại phu, Thừa tướng, phong Kiến Thành hầu.
- Nhi Khoan (? – 103 trCN), Bác sĩ, kinh học gia đời Hán. Ông làm Tả nội sử, Ngự sử đại phu thời Hán Vũ đế, từng cùng Tư Mã Thiên làm lịch Thái Sơ. Cấp Ảm (? – 112 trCN), tự Trường Nhụ, Đông Hải Thái thú thời Hán Vũ đế, sau được triệu vào triều làm quan hàng Cửu khanh. Ông tính cương trực, dám can gián thẳng giữa triều đình, Vũ đế tuy bên ngoài kính trọng nhưng bên trong không thích lắm. Sau ông ra làm Hoài Dương Thái thú.
- Y Doãn: Tên là Chí, phò tá vua Thành Thang sáng nghiệp nhà Thương, an định thiên hạ giai đoạn đầu nhà Thương. Thành Thang mất, ông làm A hành phụ chính cho cháu Thành Thang là Thái Giáp. Thái Giáp vô đạo, Y Doãn trục xuất về Đồng cung, tự mình nhiếp chính. Thái Giáp ở Đồng cung hối hận, tu dưỡng, đổi ác thành thiện, Y Doãn đón về trao lại chính quyền. Từ đó, nhà Thương ngày càng hưng thịnh. Phó Duyệt là tể thần thời Cao tông Vũ Đinh nhà Thương, vốn xuất thân thấp hèn, được Vũ Đinh đề bạt trọng dụng. Ông bày mưu kế, khuyến khích Vũ Đinh chăm học, tu dưỡng, được Vũ Đinh đánh giá rất cao.
- Thiệu Hổ: Tức Thiệu Mục công, tên là Hổ, dòng dõi của Thiệu công Thích, em Chu Vũ vương. Ông là khanh sĩ triều Chu Lệ vương, là một nhà chính trị lỗi lạc triều Chu. Lệ vương vô đạo, ông thẳng thắn can gián nhiều sai lầm. Sau có biến loạn, Lệ vương phải bỏ chạy, ông duy trì được dòng dõi cho thiên tử. Phương Thúc là khanh sĩ đời Chu Tuyên vương, từng vâng mệnh nam chinh Kinh Sở, bắc phạt Hiểm Doãn, lập nhiều công lao.
- Thổi trộm (lạm suy): Chỉ việc mạo sung cho đủ số, danh không phù hợp với thực. Thiên Nội trừ thuyết hạ sách Hàn Phi Tử có ghi truyện Tề Tuyên vương thích nghe thổi sáo, nhưng nghe một lúc ba trăm người thổi. Nam Quách xử sĩ xin vào thổi, Tuyên vương cho, cấp bổng lộc. Tuyên vương mất, Mẫn vương lên ngôi, thích nghe từng người thổi một, xử sĩ liền bỏ trốn. Ăn không (tố xan) là vô công mà hưởng lộc, không làm mà ăn. Thơ Phạt đàn phần Nguỵ phong – Kinh Thi có câu: “Bỉ quân tử hề, bất tố xan hề” (Quân tử kia ơi, đừng có ăn không).
- Thánh tổ Nhân hoàng đế: Vua Minh Mệnh nhà Nguyễn. Sau khi vua băng, được dâng miếu hiệu là Thánh tổ, thuỵ hiệu là Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân hoàng đế.
- Tư cách (Tư). Thời xưa có định lệ theo Tư để xét thăng bổ quan lại. Có công tích sẽ được tính ra Tư, tích luỹ số Tư sẽ được thăng bổ tương ứng.
- Đại kế: Tổng kiểm tra, xem xét thành tích, công việc của quan lại.
- Lời ca Cửu tự: Xem chú thích (7). Thơ Thất nguyệt thuộc Mân phong trong Kinh Thi diễn tả những công việc phải làm quanh năm của nhân dân. Chu Hy cho rằng bài thơ này là vì Chu Thành vương chưa biết nỗi cực khổ về việc cấy gặt của nông dân nên Chu Công sai các nhạc quan sớm tối vịnh ca bài thơ này để dạy Thành vương.
- Tải sư, Địa quan, Quân dịch là những chức quan đời nhà Chu, được ghi trong sách Chu lễ.
- Thoán truyện quẻ Tổn – Kinh Dịch viết: “Tổn hạ ích thượng, kỳ đạo thượng hành” (Tổn dưới ích trên, đạo đi lên trên). Nếu như làm hại người dưới để làm lợi cho người trên thì thực sự đó là tổn hại. Thoán truyện quẻ Ích – Kinh Dịch viết: “Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương, dĩ thượng há hạ, kỳ đạo đại quang” (Tổn trên ích dưới, dân vui vô cùng, trên chăm cho dưới, đạo ấy thật sáng).Nếu như bớt của người trên làm lợi cho người dưới thì thực sự đó là ích lợi.
- Thiên Đại học sách Lễ ký có câu: “Tài tụ tắc dân tán, tài tán tắc dân tụ” (Tiền của tụ thì dân tán, tiền của tán thì dân tụ). Ý nói nếu người trên vơ vét tiền của tập trung về mình thì dân sẽ khốn khổ, phải ly tán. Nếu biết có chính sách phù hợp, thu của dân có mức độ, phân tán tiền của trong dân thì dân được sung túc ấm no, sẽ quần tụ lại.
- Lưu Án (715 – 780): Tự Tử An, đỗ Chế khoa Hiền lương phương chính đời Đường Huyền tông. Thời Túc tông, Đại tông, ông trải làm Kinh Triệu doãn, Hộ bộ Thị lang, Lại bộ Thượng thư, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự, kiêm phụ trách các công việc chi tiêu, muối sắt, vận chuyển, đúc tiền...quản lý tài chính hơn hai mươi năm, thực hành một loạt cải cách, cải tiến phương thức vận chuyển đường thuỷ bắc nam, chỉnh lý việc buôn muối, ổn định vật giá, cải thiện tình hình tài chính khó khăn của nhà Đường sau loạn An - Sử. Đầu thời Đức tông, ông bị hãm hại, bị giết.
- Quan sơn phủ hải: Chính sách nhà nước đặt quan quản lý các nguồn lợi muối và sắt ở núi biển do Quản Trọng đề xuất. Thiên Hải vương sách Quản Tử viết: Tề Hoàn công hỏi: Ta làm gì để trị nước? Quản Trọng thưa: Chỉ có quan sơn hải là được thôi. Quản Trọng (? – 645 trCN), tên là Di Ngô, Tướng quốc nước Tề thời Xuân thu. Ông là nhà chính trị có tài năng nổi tiếng. Trong thời gian làm Tướng quốc, ông đã tiến hành nhiều cải cách về quân sự, hành chính, kinh tế...làm cho nước Tề hùng mạnh, giúp Tề Hoàn công lập nghiệp Bá.
- Lý Khôi (455 – 395 trCN): Tướng quốc nước Nguỵ thời Chiến quốc. Ông đã cho tiến hành một loạt cải cách về chính trị, kinh tế. Ông đề ra chính sách cân bằng thu mua: Năm được mùa, nhà nước căn cứ theo giá cả năm ấy xuất tiền thu mua lương thực thừa của nông dân, đến năm mất mùa thì nhà nước bán ra với giá bình ổn.
- Tang Hoằng Dương (152 – 80 trCN) từng làm Thị trung đời Hán Vũ đế, rồi Trị túc đô uý, lãnh Đại nông lệnh. Ông chủ trương chính sách trọng nông ức thương, thi hành chính sách độc quyền về muối, sắt, rượu rất đắc lực. Khi sắp qua đời, Vũ đế thăng ông làm Ngự sử đại phu, cùng Hoắc Quang, Thượng Quang Kiệt nhận di chiếu phò tá Hán Chiêu đế. Vũ Tăn Tử là Vũ Văn Dung (? – 731). Ông thông minh, có năng lực, nhờ quản lý tài chính thuế khoá tốt mà được tín nhiệm. Đầu đời Huyền tông, ông làm Giám sát Ngự sử, kiến nghị kiểm tra số hộ khẩu trốn cùng số ruộng ngoài sổ sách để tăng nguồn thu cho quốc gia. Vua chuẩn y. Ông thanh tra phát hiện được nhiều sai sót che dấu. Ông xin đặt chức Khuyến nông Phán quan đi các nơi kiểm tra hộ khẩu và ruộng đất. Các địa phương nhân đó khai khống con số để lập công. Ông đã thi hành chính sách tăng nặng thuế khoá khiến dân cực khổ oán thán. Sau có người tỗ cáo ông tham nhũng, nhận hối lộ nên ông bị xử tội lưu đầy rồi chết,.
- Tượng truyện quẻ Càn – Kinh Dịch viết: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức” (Trời vận hành mạnh mẽ, quân tử theo đó mà tự gắng không ngừng). Thiên Thiệu cáo – Kinh Thư ghi lời Thiệu công Thích, hiền thần nhà Chu, em Chu Vũ vương nói: “Vương kính tác sở, bất khả bất kính đức” (Vương phải lấy kính làm chỗ của mình, không thể không kính đức). Sách Đại học có ghi lời minh khắc trên chậu tắm của vua Thành Thang rằng: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” (Hãy thành thực hàng ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày ngày mới).
- Thiên Vô dật – Kinh Thư là lời Chu Công răn dạy Thành vương trước khi trao chính quyền cho Thành vương. Ông nói làm vua không được nhàn rỗi hưởng lạc, phải biết cấy gặt khó khăn vất vả, lấy các bậc tiên vương làm bài học cho mình... Thơ Thần công thuộc phần Chu tụng – Kinh Thi là bài thơ răn dạy các quan phụ trách nông nghiệp.
- Nhiều kê nhiều lúa: Nguyên văn là “Đa thử đa đỗ”, trích dẫn thơ Phong niên (năm được mùa) thuộc phần Chu tụng – Kinh Thi.
- Tích trữ khí giới (Trừ nhung). Tượng truyện quẻ Tuỵ - Kinh Dịch viết: “Trạch thượng ư địa, Tuỵ, quân tử dĩ trừ nhung khí, giới bất ngu” (Đầm ở trên đất là tượng quẻ Tuỵ, người quân tử theo đó mà tích trữ vũ khí đề phòng bất trắc). Chăm lo quân đội (Cật binh). Thiên Lập chính – Kinh Thư có câu: “Duy hữu ty chi mục phu, kỳ khắc cật nhĩ nhung binh dĩ trắc Vũ chi tích” (hỡi các vị giữ trách nhiệm chăn dân, hãy chăm lo quân đội của các vị để noi theo Đại Vũ).
- Tái tập tái cao: Lời thơ Thời mại phần Chu tụng – Kinh Thi: “Tái tập can qua, tái cao cung thỉ” (bọc can qua lại, gói cung tên lại). Ý nói thiên hạ thái bình, không cần dùng đến vũ khí nữa.
- Ba năm xét công: Thiên Thuấn điển - Kinh Thư nói chế độ khảo xét quan lại đời Ngu Thuấn: “Tam tải khảo tích, tam khảo truất trắc u minh” (Ba năm xét công một lần, ba lần xét thì thăng thưởng người sáng suốt, truất phạt kẻ ngu tối). Lục kế của Chu lễ là sáu nội dung xét quan lại thời nhà Chu được ghi trong phần Tiểu tể - Thiên quan sách Chu lễ: “Dĩ thính quan phủ chi lục kế, tệ quần lại chi trị: Nhất viết liêm thiện, nhị viết liêm năng, tam viết liêm kính, tứ viết liêm chính, ngũ viết liêm pháp, lục viết liêm biện” (Dùng sáu cách để xét việc trị của các quan lại: Một là xét thiện, hai là xét năng lực, ba là xét kính, bốn là xét chính, năm là xét có theo phép hay không, sáu là xét khả năng biện biệt).
- Cao dương: Thơ Cao dương trong phần Thiệu Nam – Kinh Thi, ca ngợi các quan được thấm nhuần đức hoá Văn vương nên đều có phong thái khoan hòa, thư thái, tiết kiệm.
- Trong thiên Học nhi sách Luận ngữ, Khổng Tử có nói: “Đạo thiên thặng chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời” (Trị một nước có nghìn cỗ xe phải kính cẩn các việc mà giữ tín, chi dùng tiết kiệm mà yêu người, sai khiến dân đúng thời).
- Thiên Lương Huệ vương thượng sách Mạnh Tử ghi lời Mạnh Tử nói: nhà có năm mẫu để trồng dâu thì người năm mươi tuổi có áo lụa để mặc, nuôi gà chó lợn không trái thời thì người bảy mươi tuổi có thịt mà ăn. Ruộng trăm mẫu mà không đoạt thời vụ nhà nông thì nhà có mấy miệng ăn không lo đói. Sau đó thận trọng việc giáo hoá ở trường Tường trường Tự, dạy cho ý nghĩa hiếu đễ, đó là vương đạo.
- Hoàng điểu: Tên bài thơ thuộc phần Tiểu nhã – Kinh Thi, nói về cảnh dân điêu đứng khổ sở, không có nơi ở phải phiêu bạt đi nước khác, nhưng cũng không được yên.